Điểm giống nhau giữa giá trị với giá trị sử dụng là gì

1

Hàng hóa bình thường

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.

Về mặt giá trị sử dụng: tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, có thể nhận biết trực tiếp bằng giác quan.

Về mặt giá trị: tức hình thái xã hội của hàng hóa, nó không có một nguyên tử vật chất nào nên dù cho người ta có lật đi lật lại mãi một hàng hóa, thì cũng không thể sờ thấy,nhìn thấy giá trị của nó.Giá trị chỉ có một tính hiện thực thuần túy xã hội, và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ hàng hóa với nhau.

Hàng hóa sức lao động

Sức lao động (năng lực lao động) là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể con người đang sống và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hóa
Trong mọi xh, sức lao động đều là yếu tố của sx nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hoá với hai điều kiện sau:

Người lao động được tự do về thân thể, tức là có quyền tự chủ về sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định,Người lao động ko có TLSX, ko có khả năng bán cái gì ngoài sức lđ.

Hàng hoá sức lđ:

-Hàng hoá slđ là một hàng hoá đặc biệt,mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Nó cũng có 2 thuộc tính giống hàng hóa khác là giá trị và giá trị sử dụng.

-Giá trị của hàng hoá slđ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết lượng để sx và tái sx ra slđ quyết định. Cho nên giá trị của hàng hoá slđ được xác định gián tiếp qua giá trị những hàng hoá tiêu dùng mà người lao động dùng để tái sản xuất slđ để nuôi sống gia đình và chi phí học tập.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá slđ là khả năng thực hiện 1 loại lao động cụ thể nào đó và được thể hiện ra trong quá trình lao động. Giá trị sử dụng của slđ phải phù hợp với yêu cầu của người sử dụng slđ.

2. So sánh hàng hoá slđ với hàng hoá thông thường

+ Giống nhau: đều là hàng hoá và cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.

+ Khác nhau :

Về mặt giá trị:

Giá trị hàng hoá slđ bao gồm cả yếu tố tinh thần, vật chất và phụ thuộc vào đk lịch sử, đk sx của mỗi quốc gia…nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất,người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa…Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kì, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.

Giá trị slđ ko cố định : tăng lên khi nhu cầu trung bình về hàng hoá, dịch vụ của con người tăng và yêu cầu kỷ thuật lao động tăng; Giảm khi năng suất lao động xh tăng làm giảm giá trị hàng hoá tiêu dùng.

Về mặt giá trị sử dụng:

Hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động (đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt =>giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức nó có thể tao ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.

Trong quan hệ mua và bán:

Hàng hóa thông thường là những sản phẩm hoàn chỉnh được tạo ra trong quá trình sản xuất hoặc chu kỳ sản xuất (mùa vụ)

Hàng hóa sức lao động có những đặc điểm sau:

  • Ø Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và bán trong một thời gian nhất định thông qua các hợp đồng.
  • Ø Mua bán chịu:Giá trị sử dụng thực hiện trước (bắt lao động) ,giá trị thực hiện sau (trả công sau).
  • Ø Chỉ có phía người bán là công nhân làm thuê và phía người mua là các nhà tư bản,không có ngược lại.
  • Ø Giá cả của sức lao động (tiền công) luôn thấp hơn so với giá trị sức lao động bởi vì đối với người công nhân, lao động là phương tiện sinh sống duy nhất vì vậy phải bán sức lao động trong mọi điều kiện.
  • mình chỉ biết câu 1 thôi nha mình xin lỗi

Giá trị là một khái niệm trừu tượng, là ý nghĩa của sự vật trên phương diện phù hợp với nhu cầu của con người. Tạm thời có thể xem giá trị kinh tế của sự vật liên quan mật thiết đến ba mặt chính yếu của nhu cầu là sản xuất, tiêu thụ, sở hữu, của chủ thể kinh tế ở bất kỳ cấp bậc nào (cá nhân, công ty, nhà nước, toàn thế giới).

Các sự vật có khả năng thỏa mãn nhu cầu con người ở dạng đơn lẻ, riêng biệt, nhưng giá trị của chúng được liên kết lại thành hệ thống thông qua sự tương tác của các nhu cầu chính yếu nói trên.

Mục lục

  • 1 Khái niệm
  • 2 Phân biệt
  • 3 Định lượng
  • 4 Xem thêm
  • 5 Tham khảo

Khái niệmSửa đổi

Giá trị của hàng hoá là một thuộc tính của hàng hoá, đó chính là lao động hao phí của người sản xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh vào trong hàng hoá. Để hiểu khái niệm này, phải đi từ sự trao đổi và giá trị trao đổi.

Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ lệ theo một giá trị sử dụng loại hàng hoá này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác. Ví dụ 1 m vải có thể đổi được 4kg gạo. Gạo và vải, tại sao lại trao đổi được với nhau, hơn nữa lại trao đổi được theo một tỉ lệ nhất định như vậy, rõ ràng nó phải có một cơ sở chung, đó không phải là giá trị sử dụng của chúng vì vải và gạo có giá trị sử dụng hoàn toàn khác nhau, cái chung đó là cả vải và gạo đều là sản phẩm của lao động, do lao động (thời gian lao động và công sức lao động) được chứa đựng trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá.

Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh tế chính trị. Nếu xét nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn đạt được lý lẽ hoàn chỉnh. Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân khác nhau vẫn đảm bảo cơ sở cho trao đổi. Ví dụ: nhu cầu ăn và mặc có trong hai cá nhân A và B, trong lúc A sở hữu áo và B sở hữu gạo thì nhu cầu chung kia sẽ tạo tiền đề cho trao đổi, tỷ lệ trao đổi tùy thuộc rất nhiều yếu tố: vị thế, độ bức xúc nhu cầu, thói quen tâm lý, quy định xã hội v.v., vì thế tỷ lệ trao đổi sẽ là ngẫu nhiên nhưng mang tính ổn định nhất định.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Phân biệtSửa đổi

Cần phân biệt giữa giá trị với Giá trị sử dụng, Giá trị trao đổi và Giá cả.

Karl Marx cho rằng sản phẩm lao động mang giá trị sử dụng và giá trị tiềm năng - phần giá trị của sản phẩm dôi dư mà cá thể tạo ra chúng nhưng không tiêu thụ hết. Khi tham gia vào quá trình trao đổi giá trị sử dụng giãn rộng ra phần giá trị tiềm năng và tạo thành giá trị trao đổi. Có thể hiểu rằng, giá trị trao đổi vẫn chỉ là giá trị sử dụng trong quy mô xã hội, ở đó diễn ra sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa.

Giá trị sử dụng được biểu hiện bằng tiền nếu xã hội áp dụng định chế tiền tệ, đó là giá cả. Xuất phát từ đây ý nghĩ về quy luật giá trị, hay là "giá cả xoay quanh giá trị". Có thể suy ra rằng sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả chính là phần giá trị tiềm năng. Như vậy phạm trù giá trị không chỉ thu hẹp trong phạm vi trao đổi vì giá trị tiềm năng chưa thuộc quan hệ trao đổi. Nghĩa là không thể phân định được ranh giới giữa giá trị kinh tế, theo Marx K. và những nhà kinh tế học cổ điển khác, và giá trị nói chung.

Định lượngSửa đổi

Định lượng giá trị là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế lý thuyết. Các nhà kinh tế chính trị cổ điển và Marx K. cho rằng tính chất chung của giá trị xuất phát từ lao động. Giá trị lao động được đo bằng thời gian lao động. Giá trị của hàng hóa là lượng lao động trung bình cần thiết để sản xuất hàng hóa đó. Tuy nhiên lý thuyết này không giải thích được giá trị của tài nguyên, yếu tố chưa liên quan đến lao động.

Trường phái hiệu dụng biên cho rằng cơ sở giá trị của sản phẩm là tính ích dụng và sự khan hiếm. Tính ích dụng đối với từng cá nhân và ở những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau cũng khác nhau. Nhờ vào lý thuyết cận biên trong toán học được lập ra ở cuối thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu của trường phái này đã giải thích hoàn chỉnh nguồn gốc giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên học thuyết này cũng gặp phải sự phê phán khi bỏ qua vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị.

Lý thuyết hiện đại về giá trị giải quyết những vướng mắc trong định lượng giá trị bằng cơ chế cung-cầu. Đó là đóng góp của Alfred Marshall với nguyên lý cung cầu của ông. Tuy nhiên học thuyết này dựa trên tiên đề về "sự cân bằng kinh tế" mà hiện nay nhiều nhà nghiên cứu ngờ vực, có hai loại định nghĩa về giá cả đó là

  • Giá cả là người mua trả cho người bán để được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ
  • Giá cả là khoản thu nhập mà người bán nhận được khi tiêu thụ một loại sản phẩm dịch vụ.

Theo chế độ kế toán IVSC giá cả là số tiền được đưa ra yêu cầu đối với một loại sản phẩm dịch vụ. Giá trị thị trường là số tiền trao đổi ước tính về tài sản tại thời điểm thẩm định giá giữa một bên là người bán sẵn sàng bán với một bên là người mua sẵn sàng mua, sau một quá trình tiếp thị công khai, mà tại đó các bên hành động khách quan, hiểu biết và không bị ép buộc. Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán trên thị trường

Xem thêmSửa đổi

  • Quy luật giá trị

Cần phải lưu ý rằng, những giá trị tiềm năng của các sản phẩm từ tự nhiên xét cho cùng chính là "tiềm năng" + Lao động. Loại trừ những sự may mắn, những sản phẩm từ tự nhiên như vàng, bạc, đá quý...đều phải liên quan đến lao động. Người ta phải mất rất nhiều công sức, thậm chí mất mạng, vì việc tìm kiếm, bào chế, chế tác...các quặng hay những phôi....để có được sản phẩm có giá trị. Như vậy, giá trị của sản phẩm của nó trước hết là do lao động tạo nên, có nguồn gốc từ lao động. Còn giá trị tiềm năng thể hiện ở tính chất và công dụng của vật chất. Cả hai thứ đó đề liên quan những bài viết và quan điểm của K.Max, vì thế theo K. Max thì mọi giá trị đều liên quan và có nguồn gốc từ lao động, là không thể bị bác bỏ.

Tham khảoSửa đổi

  • Tư bản luận volum 1
  • Tư bản luận T.2
  • Tư bản luận 3T.
  • Bài viết về Thuyết hiệu dụng biên