Khoa học - kĩ thuật Nhật Bản 1945 -- 1952

-    Chiến tranh thế giới thứ hai để lại cho Nhật Bản những hậu quả nặng nề [gần 3 triệu người chết và mất tích, 40% đô thị, 80% tàu bè, 34% nhà máy xí nghiệp bị phá hoại, 13 triệu người thất nghiệp, đói rét…], bị Mỹ chiếm đóng dưới danh nghĩa Đồng minh [1945 – 1952].

   => Trong quá trình chiếm đóng Nhật Bản, Mĩ đã thực hiện một loạt những cải cách dân chủ ở Nhật Bản.

Cảnh hoang tàn sau vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima

*Về chính trị

Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh [SCAP] thi hành các biện pháp:

+ Loại bỏ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật, xét xử tội phạm chiến tranh.

+ Giải tán các đảng phái quân phiệt.

+ Ngày 3/5/1947, ban hành Hiến pháp mới quy định Nhật là nước Quân chủ Lập hiến nhưng thực tế là chế độ Dân chủ Đại nghị Tư sản.
+ Nhật cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không dùng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

+ Không duy trì quân đội thường trực, chỉ có lực lượng Phòng vệ dân sự bảo đảm an ninh, trật tự trong nước. Không mang quân đội ra nước ngoài

* Về kinh tế: SCAP tiến hành 3 cải cách lớn:

- Thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế, giải tán các tập đoàn lũng đoạn "Dai-bát-xư”.

- Cải cách ruộng đất, hạn chế ruộng địa chủ, đem bán cho nông dân.

- Dân chủ hóa lao động.

=> Từ năm 1950 – 1951: Nhật khôi phục kinh tế. Kinh tế đạt mức trước chiến tranh .

* Chính sách đối ngoại:

- Nhật liên minh chặt chẽ với Mỹ. Tháng 9/1951, Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô được kí kết, chấm dứt việc chiếm đóng của đồng minh Mỹ [1952].

- Ngày 8/9/1951 ký Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, với hiệp ước này Nhật chấp nhận đứng dưới "chiếc ô" bảo hộ của Mỹ, cho Mỹ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên đất Nhật.

II. Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973

1. Sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản từ 1952 - 1973

- Sau khi được phục hồi, từ năm 1952, kinh tế Nhật Bản đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhất là trong giai đoạn từ 1960 - 1973, được gọi là sự phát triển "thần kì" trong lịch sử Nhật Bản.

+ Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ năm 1960 - 1969 là 10,8%.

+ Năm 1968, kinh tế Nhật Bản đã vượt qua các nước Anh, Pháp, CHLB Đức, vươn lên đứng thứ hai trong thế giới tư bản [chỉ sau Mĩ]

- Đầu những năm 70, Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính thế giới cùng với Mỹ và Tây Âu.

- Nhật là đất nước rất coi trọng giáo dục và khoa học - kỹ thuật, vì vậy chính phủ Nhật luôn tìm cách đẩy nhanh sự phát triển bằng việc mua bằng phát minh sáng chế.

- Khoa học - công nghệ của Nhật chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng [đóng tàu chở dầu 1 triệu tấn, xây đường hầm dưới biển dài 53,8 km nối Honsu và Hokaido, cầu đường bộ dài 9,4 km…]

Tháp Tokyo - Biểu tượng của sự hồi sinh của Nhật Bản


* Nguyên nhân phát triển:

- Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định hàng đầu [Người Nhật rất cần cù, chịu khó, ý thức tự giác cao, có khả năng tiếp cận tốt những thành tựu khoa học kĩ thuật]

- Vai trò lãnh đạo, quản lý của nhà nước Nhật.

- Chế độ làm việc suốt đời, chế độ lương theo thâm niên và chủ nghĩa nghiệp đoàn xí nghiệp là ba "kho báu thiêng liêng” làm cho các công ty Nhật có sức mạnh và tính cạnh tranh cao.

- Các công ty Nhật năng động, có tầm nhìn xa, quản lý tốt và khả năng cạnh tranh cao  .                                                   

- Áp dụng thành công những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.

- Chi phí quốc phòng thấp nên có điều kiện tập trung đầu tư vốn cho kinh tế.

- Tận dụng tốt yếu tố bên ngoài để phát triển [sự viện trợ của Mỹ, chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam…].                           

* Hạn chế:

- Lãnh thổ hẹp, dân đông, nghèo tài nguyên, thường xảy ra thiên tai, phải phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu nhập từ bên ngoài.

- Cơ cấu giữa các vùng kinh tế, giữa công – nông nghiệp mất cân đối.

- Chịu sự cạnh tranh gay gắt của Mỹ, Tây Âu, NICs, Trung Quốc…

- Chưa giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản nằm trong bản thân nền kinh tế TBCN.

III. Nhật Bản từ giữa 1973 đến năm 1991

1. Kinh tế

- Từ 1973, do tác động khủng hoảng năng lượng, kinh tế Nhật thường khủng hoảng và suy thoái ngắn.
- Từ nửa sau 1980, Nhật vươn lên trở thành siêu cường tài chính số một thế giới với dự trữ vàng và ngoại tệ gấp 3 lần Mỹ, gấp 1,5 lần CHLB Đức, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới.

2. Đối ngoại

- Học thuyết Phu-cư-đa” [1977] và Học thuyết Kai-phu” [1991] chủ trương tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam 21-9-1973.

IV. Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000

*Kinh tế: vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới [năm 2000, GNP là 4746 tỷ USD, GDP bình quân là 37408 USD].

*Khoa học- kỹ thuật: phát triển ở trình độ cao. Năm 1992, phóng 49 vệ tinh nhân tạo, hợp tác với Mỹ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế.

*Văn hóa: là nước phát triển cao nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.

*Đối ngoại:- Tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mỹ. Tháng 4/1996 Mỹ - Nhật kéo dài vĩnh viễn Hiệp Ước An ninh Mỹ- Nhật.

- Nhật cũng coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng đối ngoại trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt với Đông Nam Á và tổ chức ASEAN. - Từ đầu những năm 90, Nhật nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị thế siêu cường kinh tế.

- "Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật” đã gia hạn hai lần vào năm 1960 và năm 1970, sau đó kéo dài vô thời hạn. Với hiệp ước này, đã hình thành một "liên minh Mĩ - Nhật” nhằm chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở vùng Viễn Đông.

=> Nhật Bản đã trở thành một căn cứ chiến lược” của Mĩ trong âm mưu thực hiện" chiến lược toàn cầu” chống cách mạng vào những năm 70 và nửa đầu những năm 80, Mĩ còn trên đất Nhật 179 căn cứ quân sự với 61.000 quân, riêng ở đảo Ôkinaoa có 88 căn cứ quân sự và 35.000 lĩnh Mĩ.

Mặc dù bại trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng sau năm 1945 trở đi, với những thay đổi về chính trị - xã hội cùng những thành tựu về kinh tế, khoa học – công nghệ, Nhật Bản đã vươn lên trở thành siêu cường kinh tế trên thế giới.

I. Nhật Bản từ năm 1945 – 1952

Sau chiến tranh, Nhật Bản bị quân đội Mĩ chiếm đóng từ năm 1945 đến 1952 với danh nghĩa lực lượng Đồng minh nhưng Chính phủ Nhật Bản vẫn tồn tại và hoạt động.

Bộ chỉ huy tống cao lực lượng Đông minh [SCAP] soạn thảo hiến pháp [có hiệu lực từ ngày 1/5/1947] quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến nhưng thực chất là chế độ dân chủ đại nghị tư sản. Nhật Bản cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không duy trì đội quân thường trực, chỉ có lực lượng phòng vệ dân sự bảo đảm an ninh trật tự trong nước.

SCAP thực hiện ba cuộc cải cách kinh tế gồm: thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế; cải cách ruộng đất; dân chủ hóa lao động. Đến đầu thập kỷ 50, Nhật Bản đã khôi phục kinh tế, đạt mức trước chiến tranh.

Nhật Bản liên minh chặt chẽ với Mĩ, kí kết Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô [ngày 8/9/1951]; năm 1952, chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh, sau đó kí kết Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật, cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.

II. Nhật Bản từ năm 1952 đến năm 1973

Từ năm 1952 – 1960, kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh, đặc biệt giai đoạn từ năm 1960 – 1973 được họi là giai đoạn phát triển thần kì.

Từ thập kỷ 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.

Khoa học – kĩ thuật của Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng và đạt được nhiều thành tựu.

Những yếu tố giúp Nhật Bản vươn lên trở thành siêu cường kinh tế thứ 2 trên thế giới gồm:

+ Coi trọng nhân tố con người.

+ Vai trò quản lí hiệu quả của nhà nước.

+ Các công ti Nhật Bản rất năng động, có sức cạnh tranh cao.

+ Áp dụng thành công các thành tựu khoa học - kĩ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.

+ Chi phí quốc phòng thấp, vốn chủ yếu được đầu tư vào kinh tế.

+ Tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển.

Từ năm 1955 – 1993, Đảng Dân chủ Tự do [LDP] liên tục cầm quyền, với chủ trương “Nhà nước phúc lợi chung” đã giúp Nhật Bản tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong thời gian 10 năm [từ 1960 - 1970].

Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật [kí năm 1951] có giá trị trong 10 năm và sau đó kéo dài vĩnh viễn. Năm 1965, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và sau đó trở thành thành viên của Liên hiệp quốc.

III. Nhật Bản từ năm 1973 – 1991

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năng lượng, từ năm 1973 trở đi, kinh tế nhật Bản thường xen kẽ những giai đoạn suy thoái ngắn. Tuy nhiên từ giữa thập kỷ 80, Nhật Bản đã trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới.

Từ giữa thập kỷ 70, Nhật Bản tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.

Ngày 21/9/1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

IV. Nhật Bản từ năm 1991 – 2000

Từ đầu thập kỷ 90, dù lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.

Tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh khác nhau và hợp tác với Mĩ, Liên Xô [sau là Nga] trong các chưng trình vũ trụ quốc tế.

Sau 38 năm liên tục cầm quyền của LDP [1955 - 1993], từ năm 1993 – 2000, chính quyền ở Nhật Bản do các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau lãnh đạo nên tình hình xã hội Nhật Bản không ổn định như trước.

Ngoài việc duy trì liên minh với Mĩ, Nhật Bản rất coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tác toàn cầu và nỗ lực vươn lên thành cường quốc chính trị.

Video liên quan

Chủ Đề