Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt - Wattpad

Nói đến các nhà văn trong nền văn học hiện đại thì không thể không nói đến  Kim Lân. Và khi nói đến Kim Lân thì người đọc sẽ nhớ ngay đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xem là một trong những tác phẩm điển hình của văn học Việt Nam. Với “Vợ nhặt” Kim Lân đã làm nổi bật nhân vật Tràng- hình tượng người nông dân hiền lành chất phác, giàu lòng yêu thương trong hoàn cảnh hết sức éo le ngang trái.

      Dẫn dắt vào tác phẩm, thoạt tiên nhà văn Kim Lân đã cho ta biết được một vài nét về thân phận và địa vị của nhân vật. Tràng vốn là người dân nghèo trong xóm ngụ cư sống cùng người mẹ già trong một căn nhà xiêu quẹo, rách nát. Hằng ngày anh phải ra sức đẩy xe bò chở thóc mướn. Anh có vẻ ngoài xấu và thô kệch: đôi mắt nhỏ tí, thân hình vậm vạp…Trong xã hội cùng cực đau thương tủi nhục, với thân phận và địa vị như thế chắc chăc rồi cuộc đời của Tràng sẽ kết thúc trong sự cô đơn, tủi nhục.

      Nhưng trong diễn biến của câu chuyện Tràng lại có vợ, có một gia đình hạnh phúc mà đến chính anh cũng ngỡ ngàng như đó không phải là sự thật. Nói cho đúng hơn là chính lòng thương người không đắn đo, toan tính đã trao tặng anh món quà “hạnh phúc”. Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo: Tràng đã “nhặt” được vợ qua hai lần gặp gỡ. Lần thứ nhất khi anh đẩy xe bò lên dốc. Anh hò chơi một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này-Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chủ tâm của anh không phải để chọc ghẹo cô nào, nhưng không ngờ có một chị lại cong cớn chạy ra và giúp Tràng đẩy xe lên dốc. Lần thứ hai khi đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì người đàn bà xuất hiện và mắng Tràng “điêu”. Trong tình huống đó anh không biết làm sao cho hợp tình hợp lí. Anh mời chị ăn trầu nhưng chị không ăn trầu mà đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều “muốn ăn gì thì ăn” thế là thị sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc. Ăn xong, Tràng nói một câu mà như nói tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ" thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

       Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc  “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống.  Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.

       Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường . Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dương như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh .

        Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy " ngượng nghịu" rồi cứ thế " đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: "hắn vẫn còn ngờ ngợ như  không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?". Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

      Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràng ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

       Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi  để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... 

      Có thể nói truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng thành công nhân vật Tràng-một anh nông dân nghèo nhưng giàu lòng yêu thương. Đồng thời qua Tràng nhà văn còn cho thấy sức sống mãnh liệt, diệu kì của con người Việt Nam trong khó khăn cuộc sống. Dường như càng đau khổ, mất mát người ta lại yêu thương nhau nhiều hơn. Và cũng lí giải vì sau dân tộc ta làm làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại nhớ đến “Một đám cưới nghèo” của Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói, cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độc đáo và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng góp một truyện ngắn vào loại hay nhất trong văn học Việt Nam hiện đại

Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay

Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ “đến năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang hoành hành. Cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm.

Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời này không”

Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.

Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị...Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.

Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con.

Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về nhà. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu.

Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống...Cơn đói khát làm cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên” tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân phận bọt bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít....

Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rủ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rủ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.

Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.

Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu., tuyệt vời đức hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp....Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.

Ngu�?n từ: http://vanmau.com/forum/showthread.php/5201-De-quot-Phan-tich-tac-pham-Vo-Nhat-quot.daimo#ixzz1J8AKEzf3