Sĩ nông công thương binh nghĩa là gì

Một sinh viên trường Thương mại đặt câu hỏi “Vì sao THƯƠNG bị đánh giá thấp nhất”? Tôi xin chia sẻ cách lý giải dưới đây. Bài viết này chỉ thể hiện quan điểm cá nhân.

—————-

Sau khi đánh thắng Hạng Vũ, lên ngôi Hoàng Đế, có lẽ điều khiến Hán Cao Tổ lo lắng nhất là giữ được Thiên Hạ. Ông biết, cái ngôi Thiên Tử mà ông mới giành được sẽ có nhiều kẻ dòm ngó. Vậy người, có khả năng soán ngôi Hoàng Đế trong tương lai, sẽ đến từ đâu?

Xã hội phong kiến thời đó có 4 giai cấp chính: Kẻ Sĩ, Thương Gia, Nông Dân và Thợ Thủ Công.

Giai cấp khiến Hán Cao Tổ ít lo lắng nhất là Kẻ Sĩ. Ông biết, Kẻ Sĩ tuy được học hành đầy đủ, nhưng họ chỉ là những con mọt sách, thiếu thực tiễn, không có tính quyết đoán, nên không làm được việc lớn. Quan trọng hơn, hầu hết Kẻ Sĩ đều đang làm quan, họ sẽ không dám mạo hiểm để mất đi lương cao bổng hậu đang nhận từ triều đình.

Trong ba giai cấp còn lại, chắc Hán Cao Tổ lo sợ nhất là đám Thương Nhân: họ kiếm được nhiều tiền tức là họ có trí; họ dám mất tiền [dám đầu tư] tức là họ có dũng; họ giầu có tức là họ có nhiều phương tiện để hành động. Hơn nữa, tấm gương thương nhân Lã Bất Vi còn ngay trước mắt, nên Hán Cao Tổ càng cảnh giác.

Vì vậy, Nhà Hán quyết định xếp các giai cấp trong xã hội theo thứ tự SĨ-NÔNG-CÔNG-THƯƠNG. Giai cấp Kẻ Sĩ được đặt ở vị trí cao quý nhất và giai cấp Thương Nhân bị đặt ở vị trí thấp hèn nhất.

Sự sắp đặt này giúp Hán Cao Tổ đạt hai mục tiêu: một là, được tiếng Minh Quân vì biết tôn trọng kẻ sĩ; hai là, khi bị đặt ở vị trí bị mọi người khinh rẻ, giai cấp Thương Nhân sẽ không có uy tín để tập hợp lực lượng tranh giành thiên hạ.

Vì được đặt ở vị trí cao quý, nên kẻ sĩ được mọi người tôn trọng. Truyền thống tôn vinh những người đỗ đạt cao ở TQ và VN, có lẽ, cũng xuất phát từ đây.

Tôi muốn nói thêm về giai cấp Kẻ Sĩ. Họ đều là những người tự hào vì đọc chữ Thánh Hiền, luôn tâm niệm trong lòng bốn chữ TRUNG QUÂN ÁI QUỐC [tạm hiểu: Yêu nước là trung thành với Vua, vì ngày xưa nước là của Vua]. Những chuyện về “Kẻ Sĩ – Ngu trung” có rất nhiều trong lịch sử. Ngay như Bao Thanh Thiên, người bảo vệ luật pháp được mệnh danh là Thiết Diện Vô Tư, khi đối mặt với Thánh chỉ, dù trong lòng bất phục, nhưng bên ngoài cũng không thể có hành động bất tuân. Hán Cao Tổ quả là biết nhìn đúng bản chất của Kẻ Sĩ.

Vì bị đặt ở vị trí thấp hèn, giai cấp thương nhân sau thời Hán Cao Tổ, không bao giờ ngóc đầu lên được. Họ là giai cấp tội nghiệp nhất trong lịch sử TQ. Ở Việt Nam cũng thế, thương nhân đến gần đây vẫn bị coi là “con phe” chuyên buôn gian bán lận.

Tôi muốn nói vài lời công bằng cho các thương nhân.

Hầu hết, mọi người đều tin rằng, chỉ có công nhân, nông dân, các nhà khoa học – công kỹ nghệ… mới tạo ra của cải vật chất, còn thương nhân chỉ là những người trung gian buôn nước bọt kiếm lời. Đây là một quan niệm không chính xác.

Thứ nhất, thương mại tạo ra giá trị gia tăng. Một mớ rau muống trị giá một ngàn, đưa vào nhà hàng năm sao sẽ có giá vài trăm ngàn. Tương tự, một củ sâm mang từ Hàn Quốc sang Pháp, giá trị cũng tăng lên nhiều lần.

Thứ hai, không chỉ tạo ra giá trị gia tăng, thương mại còn góp phần làm tăng năng suất lao động, qua đó tăng số lượng sản phẩm. GATT, một tổ chức tiền thân của WTO, đã từng đưa ra các bài giảng về nội dung này. Ví dụ, so với người Việt Nam, năng suất chế tạo ô tô của người Pháp cao gấp 5 lần, trong khi năng suất chế tạo xe đạp chỉ gấp 2 lần. Pháp có lợi thế so sánh với Việt Nam khi sản xuất ô tô. Việt Nam có lợi thế so sánh với Pháp khi sản xuất xe đạp. Nhờ có trao đổi thương mại mà mỗi nước có thể tập trung vào lợi thế so sánh của mình và kết quả là tổng số ô tô và xe đạp của Pháp + Việt Nam, có thể sản xuất, sẽ nhiều hơn.

Vì vậy, nếu bạn định trở thành thương nhân, thì hãy tự tin đi theo lựa chọn của mình. Đừng lo bị gọi là con phe. Đừng buồn vì ai đó nói bạn chỉ biết buôn gian bán lận, sống bằng nước bọt. Hãy tin rằng, thương mại có đóng góp tích cực cho mọi nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

Và xã hội cũng nên nhìn nhận đúng vai trò của doanh nhân. Họ cần được nuôi dưỡng tốt hơn vì các doanh nghiệp là nguồn thu ngân sách và tạo công ăn việc làm quan trọng nhất.

— Hoàng Minh Châu. Ảnh //The-Forget-Me-Not-Diary.tumblr.com

Tứ dân là cách gọi bốn giai cấp chính trong xã hội xưa dưới các triều đại quân chủ, tiêu biểu như ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam...

Xem thêm: Lục nghệ

Xem thêm: Sĩ đại phu, Quan lại, và Khoa cử

Xem thêm: Chế độ Tỉnh điền và Chế độ Quân điền

 

Tranh tường khắc họa một vũ công thời Đông Hán nằm trong lăng mộ Đả Hổ Đình

Xem thêm: Tiện nhân

Có nhiều nhóm xã hội nằm bên ngoài phạm vi Tứ dân trong hệ thống phân cấp xã hội. Những người này bao gồm binh lính và cận vệ, tăng lữ và thầy bói, hoạn quan và vợ lẽ; ngoài ra còn có những kẻ mua vui cũng như gánh hát và bầu gánh, đầy tớ/người hầu và nô tỳ trong nhà [hay còn gọi chung là gia nô], kỹ nữ và những người lao động cấp thấp hơn nông dân và thợ thủ công [ví dụ như đao phủ, đồ tể...] được xếp vào tầng lớp Tiện nhân [賤人]. Họ làm những công việc bị coi là vô giá trị hoặc "bẩn thỉu, thô tục", thậm chí không được ghi nhận là thường dân và đôi khi không có đủ tư cách pháp lý.[1]

Nghề ca xướng mua vui bị xem là ít hữu dụng đối với xã hội và thường do tầng lớp hạ lưu hay còn gọi là tiện dân [tiếng Trung: 賤民] đảm nhận.[2]

Sĩ được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, những người có học có hiểu biết về chữ nghĩa [thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò]. Tầng lớp này nhìn chung có cuộc sống nhàn nhã, suốt ngày chăm chỉ đọc sách thánh hiền, làm văn, ngâm thơ.[3] Những con người bình dân muốn thay đổi cuộc sống gần như chỉ có con đường duy nhất là học và thi khoa cử. Trong gia đình kẻ sĩ, người vợ phải tần tảo sớm hôm lo việc đồng áng, canh cửi để nuôi chồng. Nếu chồng thi đậu khoa cử, người vợ sẽ trở thành bà thám, bà bảng hay là mợ cử, mợ tú. Nếu chồng thi trượt, người vợ vẫn có thể hãnh diện với danh vợ thầy đồ làng hay là vợ tú tài. Các kỳ khi Hương, thi Hội, thi Đình [gọi chung là Khoa bảng] cũng được tổ chức để chọn người học giỏi ra làm quan giúp triều đình hoặc nếu không muốn làm quan thì có thể làm thầy đồ, thầy thuốc,...

Việc tầng lớp sĩ phu gần như không tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất được xếp hàng đầu trong các tầng lớp giai cấp phản ánh tư tưởng trọng Nho giáo của người Việt trong xã hội xưa đồng thời cho thấy người Việt ta từ xưa đã có truyền thống coi trọng việc học hành, khoa cử.

Nông

Nông là chỉ những người nông dân cày ruộng, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội xưa. Đa phần những người nông dân quanh năm suốt tháng lao động chân lấm tay bùn, vất vả sớm trưa nhưng nhiều khi không đủ ăn do những gánh nặng về thuế khoá, lao dịch hay thiên tai, mất mùa nhưng họ vẫn có cơ hội được triều đình miễn hoặc giảm thuế trong thời gian bất ổn nếu có vua sáng suốt cai trị. Tầng lớp nông cũng có sự phân hoá thành ba loại phổ biến:[3]

  • Trung nông: những người có ruộng đất riêng, sở hữu công cụ sản xuất, tự làm, tự ăn, không phải đi làm thuê đồng thời cũng không tham gia bóc lột.
  • Bần nông: những người chỉ sở hữu ít ruộng đất, phải đi canh tác thêm trên ruộng đất của địa chủ, phải thuê mướn trâu bò và nông cụ sản xuất.
  • Cố nông: là những người nghèo khổ nhất tầng lớp nông dân và có thể nói là cả xã hội, không có ruộng đất cũng như công cụ sản xuất, họ sử dụng sức lao động đi làm thuê cho chủ để kiếm ăn.

Ngoài ra còn có loại thứ tư là Phú Nông nhưng hiếm, họ là những người sở hữu rất nhiều ruộng đất và công cụ sản xuất. Phú nông có bóc lột nhân công và nợ lãi nhưng vẫn tham gia lao động sản xuất là chủ yếu nên vẫn thuộc giai cấp nông dân trong khi địa chủ, cường hào là những người gần như không lao động sản xuất mà chỉ biết bóc lột người khác.[4]

Nông là bộ phận đông đảo và quan trọng nhất của xã hội Việt Nam xưa, họ là lực lượng lao động và sản xuất chính nuôi sống toàn bộ xã hội và tham gia vào quân đội để bảo vệ Tổ quốc [thông qua chính sách Ngụ binh ư nông], nhưng đồng thời cũng là tầng lớp bị áp bức nhiều nhất.

Công

Công là chỉ những người làm thủ công nghiệp, làm thuê trong các làng nghề truyền thống như dệt, chạm bạc, khâu nón, làm tranh... Họ được xếp vào hàng thứ ba trong tứ dân bởi quy mô nhỏ, số lượng ít do thực tế trong xã hội nước ta thời xưa chỉ tồn tại những làng nghề thủ công ở uy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của làng xã. Ở thành thị những người thợ này tập hợp thành những "phường" để bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau, còn ở nông thôn những thợ thủ công phần nhiều vẫn là những người nông dân, họ tranh thủ làm thêm để cải thiện cuộc sống những lúc nông nhàn.[5] Tuy nhiên đôi lúc những người thợ thủ công cũng được mời vào kinh thành để làm một số việc trong triều đình như may áo mũ dành cho vua quan, đúc tiền riêng của triều đình,...

Thương

Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội xuất phát từ thực tế nền kinh tế tự cung tự cấp và tính tự trị của làng xã gần như không có nhu cầu trao đổi hàng hoá ra khỏi phạm vi cư trú, những người hành nghề buôn bán do đó phải năng động, sòng phẳng, thậm chí gian lận mới có lãi. "Buôn gian bán lận" đã trở thành cụm từ phổ biến cho tới tận ngày nay, đó là điều mà một xã hội thuần nông coi trọng lễ nghĩa không muốn chấp nhận.[6] Trong quan niệm, người Việt ta xưa cho rằng nghề kinh doanh chỉ là buôn nước bọt, mua chỗ này rẻ rồi bán chỗ kia đắt, ăn chênh lệnh, không làm ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần cho xã hội.[7] Tuy nghề thương không được quá coi trọng nhưng cũng không thể không duy trì.

Vai trò của Tứ dân trong xã hội hiện đại

Trải qua hàng trăm năm với nhiều thay đổi, xã hội Việt Nam hiện đại đã có nhiều thay đổi trong quan niệm về vai trò của Tứ dân. Cả bốn tầng lớp sĩ, nông, công, thương đều có vai trò, vị thế ngang nhau trong xã hội, vì không ai thay thế được ai. Bên cạnh tầng lớp sĩ, 3 tầng lớp còn lại [nông, công, thương] muốn tồn tại, có tác dụng cho xã hội cũng phải học hành, trau dồi trí thức, văn hóa. Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam chủ trương mở cửa để hội nhập với thế giới, thì thương chẳng những không bị coi thường như trước mà còn được đặc biệt coi trọng. Điều này được thể hiện ở một sự việc: Trong khi sĩ, nông, công chưa có ngày của riêng mình thì đã có ngày doanh nhân Việt Nam dành riêng cho giới doanh nhân. Nhiều doanh nhân đã được xã hội tôn vinh, được nhân dân trân trọng bởi họ làm ăn chân chính, đúng luật, thi hành trách nhiệm nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước, kích thích sản xuất phát triển.[7]

Xướng ca vô loài

Xướng ca vô loài là một quan niệm thành kiến, sai lầm thời phong kiến, ý nói những kẻ làm nghề ca hát là hoàn toàn mất hết nhân phẩm, bị khinh rẻ, không thuộc tầng lớp nào trong xã hội.

Thời xưa, trong xã hội được phân ra thành bốn giai cấp chính: Sĩ nông công thương, gọi là tứ dân. Trong đó:

  • Sĩ được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, có học, có hiểu biết.
  • Nông là chỉ những người nông dân làm ruộng.
  • Công là chỉ những người làm thủ công nghiệp.
  • Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội.

Và với 4 tầng lớp như thế, thì những người làm nghề ca hát không thuộc tầng lớp nào, nên mới có câu Xướng ca vô loài.

  1. ^ Hansson, tr. 20-21
  2. ^ Hansson, tr. 28-30
  3. ^ a b Nguyễn Tiến Dũng, Văn hoá Việt Nam thường thức, trang 209
  4. ^ “NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ QUAN HỆ ĐỊA CHỦ- TÁ ĐIỀN Ở NAM BỘ THỜI KỲ CẬN ĐẠI”. hochiminhcity.gov.vn. line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 37 [trợ giúp]
  5. ^ Nguyễn Tiến Dũng, Văn hoá Việt Nam thường thức, trang 210
  6. ^ Nguyễn Tiến Dũng, Văn hoá Việt Nam thường thức, trang 211
  7. ^ a b Nguyễn Đình San, [1] Lưu trữ 2014-05-02 tại Wayback Machine, Pháp luật & Xã hội online, 27/08/2010

  • Nguyễn Tiến Dũng, Văn hoá Việt Nam thường thức, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tứ_dân&oldid=67771063”

Video liên quan

Chủ Đề