Tại sao phải dụng công lịch

Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng. Người Babylon dùng lịch này đầu tiên từ mấy ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta. Những người dùng Âm lịch đầu tiên gồm người Ai Cập, Trung Hoa, Hébreux [Do Thái thời xưa]. Hiện tại lịch musulman [Hồi giáo] và một số dân Phi châu cũng dùng âm lịch. Nước ta cũng vậy.

Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng. Người Babylon dùng  lịch này đầu tiên từ mấy ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta. Những người dùng  Âm lịch đầu tiên  gồm  người Ai Cập, Trung Hoa, Hébreux [Do Thái thời xưa]. Hiện tại lịch musulman [Hồi giáo]  và  một số dân Phi châu cũng  dùng  âm lịch. Nước ta cũng vậy.

Vì phải bắt đầu một tháng lúc trăng mới mọc và chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5..., số ngày không chẵn, nên họ dùng những tháng  29 và 30 ngày.

 [BBT]

1. Nhuận của lịch là gì? Vì sao lại có nhuận?

Nhuận là do chủ quan của người làm lịch đặt ra nhằm cho thời gian phù hợp với quy luật thiên nhiên. Dương lịch và âm lịch đều có nhuận.

Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển của lịch sử loài người là quá trình tìm kiếm để chọn lọc những đơn vị thời gian đó thành những hệ đếm để phục vụ cho hoạt động xã hội. Lịch [âm lịch và dương lịch] là những bảng ghi thứ tự thời gian, chia chuỗi thời gian liên tục thành những đơn vị thời gian và sắp xếp chúng thành một hệ đếm phù hợp với nhu cầu của con người.

Ta biết rằng trong Thế giới trời sao có 3 đơn vị thời gian thiên nhiên quan trọng, nó gắn liền với thế giới trần gian - một thế giới của muôn loài động vật rất phong phú và đa dạng. Ba đơn vị thời gian đó là:

- Năm Mặt trời biểu thị chu kỳ thời tiết, tức là chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời có độ dài bằng 365,242198... ngày [gần 365,25 ngày].

- Tháng Mặt trăng biểu thị chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5... ngày.

- Ngày là thời gian ánh sáng Mặt trời trở lại do nguyên nhân Trái đất tự quay quanh mình vừa tròn một vòng.

Ba đơn vị thời gian này là bộ máy chỉ thời gian trong thái dương hệ của chúng ta không phải do con người tự đặt ra. Các nhà thiên văn khí tượng đã nhận thấy 3 đơn vị thời  gian thiên nhiên này không thông ước với nhau, nghĩa là không tìm được một số nào chia hết cho cả 3 đơn vị. Vì vậy, nếu lấy ngày làm đơn vị thì tháng Mặt trăng và năm Mặt trời không phải là số ngày nguyên, mà có vô số số lẻ.

Người làm lịch thì phải tính năm, tháng có bao nhiêu ngày. Bởi vậy những phần lẻ trên đây đã làm cho bài toán tính lịch trở thành hắc búa. Nếu bỏ phần lẻ đi thì tháng không đúng với tuần trăng, năm không đúng với mùa khí hậu; mà lịch thì phải lấy tròn. Do đó trong âm lịch phải có tháng thiếu [29 ngày], tháng đủ [30 ngày]; trong dương lịch có tháng 30 ngày, tháng 31 ngày; riêng tháng hai là 28 ngày hoặc 29 ngày. Năm,  phải có năm thường, năm nhuận [dài hơn]. Ðây không phải là một quy luật thiên nhiên, mà là một quy luật chủ quan dùng thuật lấy thừa bù thiếu của người xếp lịch. Bởi vậy dương lịch và âm lịch đều có nhuận.

a. Nhuận của dương lịch

là để khắc phục phần lẻ của năm Mặt trời [0,242198... ngày] do chưa đưa vào để xếp lịch. Vì vậy cứ 4 năm dư ra 1 ngày, một thế kỷ dư ra gần một tháng... Ðể tránh sai sót này, người làm lịch đã quy ước trung bình 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2, tức là năm đó có 366 ngày [năm Nhuận] và tháng hai có 29 ngày.

a. Nhuận âm lịch

là để khắc phục sự sai khác tháng Mặt trăng [tháng âm lịch] với quy luật thời tiết - chu kỳ thời tiết [năm dương lịch]. Bởi vì, tháng âm lịch chỉ có 29-30 ngày, nên dẫn đến năm âm lịch chỉ có 354-355 ngày, ngắn hơn năm dương lịch trung bình 11 ngày; hay nói cách khác là năm âm lịch đi nhanh hơn năm dương lịch là 11 ngày, 3 năm nhanh hơn 1 tháng, 9 năm nhanh hơn một mùa. Vì vậy, ngày đầu năm vào mùa Xuân thì 9 năm sau vào Hạ... Chính vì thế người đời xưa phải ăn Tết Nguyên Ðán vào đủ các loại hình thời tiết, không còn mang tính cổ truyền khí tiết của ngày tết đượm sắc Xuân mới.

Ðể khắc phục tình trạng trên, người làm lịch đã phải tăng số ngày cho năm âm lịch bằng hình thức nhuận với quy ước là Thập cửu niên thất nhuận nghĩa là cứ 19 năm có 7 năm nhuận, năm nhuận âm lịch có 13 tháng.

c. Năm nhuận theo lịch pháp

Ðể đảm bảo đúng vào tiết xuân ngày Mồng Một Tết chỉ ở trong khoảng từ tiết Lập Xuân đến tiết Vũ Thủy, tức là từ ngày 21.01 đến 20.02 dương lịch. Nếu năm âm lịch nào [khi chưa tính thêm tháng nhuận] có ngày Mồng Một Tết năm sau sớm hơn này 21.01 dương lịch thì năm đó phải là năm nhuận.

- Theo quy ước trên, qua năm 2001, ngày Mồng Một Tết Tân Tỵ nhằm vào ngày 24.01 dương lịch [hợp với quy ước]. Do vậy, năm 2001 - Tân Tỵ là năm không có nhuận âm lịch [13 tháng].

Ðể dễ nhớ, muốn biết năm nào là năm nhuận âm lịch, cứ lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong 7 con số: 0, 3, 6, 8, 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó là năm nhuận.

d. Tháng nhuận theo lịch pháp

- Tháng âm lịch nào trong năm nhuận không có ngày Trung khí thì tháng ấy gọi là tháng nhuận, nghĩa là tháng gọi tên của tháng trước kề liền.

- Nếu 1 hay 2 năm liền kề nhau có 2 tháng đều thiếu ngày Trung khí thì tháng trước là tháng nhuận, tháng sau không phải là tháng nhuận nữa.

2. Tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay dương lịch?

Hiện nay ở nước ta và một số nước khác trong khu vực Ðông Nam Á đang còn xuất bản và sử dụng hai loại lịch, đó là dương lịch và âm lịch.

+ Dương lịch là loại lịch theo Mặt trời, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là năm Mặt trời, tức là độ dài chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời.

+ Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là tháng Mặt trăng, tức là độ dài chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất.

Theo Hán - Việt thì Mặt trời là Thái Dương, Mặt trăng là Thái Âm. Do vậy, lịch theo Mặt trời gọi là dương lịch, lịch theo Mặt trăng gọi là âm lịch.

Vì tồn tại hai loại lịch như vậy và cứ mỗi lần đón mừng xuân mới của năm âm lịch lại là một dịp bàn tán xôn xao về tên của năm ấy.

Người ta cho rằng nếu năm nào có nhuận thì năm đó sẽ là một năm mất mùa, thiên tai lắm, địch họa khôn lường... Vậy sự thực tên năm âm lịch, nhuận có phải do thượng đế, thần thánh sinh linh gì tạo ra như một số học thuyết của chủ nghĩa duy tâm đã truyền bá trong nhân dân ta? Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ đề cập đến việc đặt tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay theo dương lịch để cùng tham khảo.

Từ thời xa xưa, con người vẫn tin rằng có một mối liên hệ huyền bí nào đó giữa vũ trụ và sự sống. Vì vậy, người thượng cổ đã xây dựng lên cả một kho tàng thần thoại lý thú về bầu trời sao ngoạn mục thể hiện trong các chuyện cổ Hy Lạp. Tất nhiên trong những chuyện hoang đường như vậy đã không thoát khỏi tư tưởng huyền bí mà vai trò thiêng liêng của thượng đế đã ngự trị trong các tôn giáo suốt thời gian dài.

Từ thế kỷ XVI, khoa học thiên văn phát triển đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của con người trong nhận thức thế giới trời sao. Trong những thế kỷ gần đây, người ta biết rằng Mặt trời là nguyên nhân tồn tại của sự sống và phát triển của loài người. Nhờ sự hiểu biết về thuyết chuyển động tương đối trong vật lý cơ học, con người mới khẳng định rằng Trái đất cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt trời tạo thành hệ Mặt trời và gọi chuyển động ấy là chuyển động biểu kiến của Mặt trời xung quanh Trái đất hay còn gọi là đường Hoàng Ðạo.

Người phương Ðông chia đường Hoàng Ðạo ra làm 12 cung kể từ  điểm Xuân Phân, qua Hạ Chí, đến Thu Phân và đến Ðông Chí để biểu thị các mùa khí hậu nóng, lạnh khác nhau như: xuân, hạ, thu, đông.

Người phương Tây đặt tên ấy theo tên của các chòm sao như Ðại Hùng, Tiểu Vương, Thiên Vương, Tiên Nữ, Phi Mã...

Các nhà cổ đại Trung Quốc lại đặt 12 cung trên theo chi, tượng trưng cho Trời là: Tý, Sửu, Dần, ...Tuất, Hợi. Họ kết hợp với 10 can, tượng trưng cho Ðất là: Giáp, Ất, Bính... Nhâm, Quý để đặt tên năm âm lịch theo nguyên tắc Can chi ký pháp, tức là ghép can với chi theo một trật tự thứ tự được thể hiện rõ trong thuật số tử vi.

Thực ra tên năm âm lịch hàng năm chỉ là một quy ước của lịch pháp âm lịch mà nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã dùng trong việc sắp xếp lịch trong các kỷ nguyên và được truyền sang nước ta trở thành lịch cổ truyền. Cho đến nay vẫn còn nhiều người cho rằng tên năm âm lịch có ảnh hưởng quyết định đến tương lai cuộc sống của mỗi con người, có năm ảnh hưởng đến chu kỳ thời tiết trong năm như: Năm Thìn nhiều bão, năm Mão mất mùa, năm Tý, năm Dần nhiều thiên tai, địch họa....

Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay còn một số vùng quen dùng âm lịch để tính toán chỉ đạo sản xuất nông nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lỡ thời vụ, đặc biệt vào những năm âm lịch có nhuận. Chính vì vậy, kể từ năm 1968, Chính phủ đã quyết định Nông lịch theo dương lịch và nước ta bắt đầu sử dụng loại âm lịch mới được tính toán theo múi giờ số 7 [Kinh độ 105 độ Ðông] đi qua Thủ đô Hà nội để thay thế cho loại âm lịch cũ được tính toán theo múi giờ số 8 [Kinh độ 120 độ Ðông] đi qua Thủ đô Bắc Kinh - Trung Quốc.

Dương lịch ứng dụng trong nông nghiệp dựa vào 24 ngày Tiết [12 Tiết khí và Trung khí], mỗi Tiết khoảng 15-16 ngày, biểu thị thời vụ, thời tiết sát với từng vùng lãnh thổ của nước ta.

Trần Xuân Hiền -Trung tâm Dự báo Khí Tượng Thủy Văn Lâm Đồng

[Theo VietSciences]

Lịch Gregorius, hay lịch Gregory, còn gọi là Tây lịch, Công lịch, Dương lịch, là lịch được sử dụng ở hầu hết các nơi trên thế giới.[1] Nó được đặt theo tên của Giáo hoàng Grêgôriô XIII, ông đã giới thiệu lịch này vào tháng 10 năm 1582.

Lịch

  • x
  • t
  • s

Phân loại
  • Âm
  • Âm dương
  • Dương
Dùng rộng rãi
  • Thiên văn
  • Phật
  • Nông
  • Gregorius
  • Hindu
  • Hồi giáo
  • Shamsi Hijri
  • ISO
  • Thời gian Unix
Dùng hạn hẹp
  • Akan
  • Armenia
  • Assamese [Bhāshkarābda]
  • Assyria
  • Baháʼí
    • Badí‘
  • Balinese pawukon
  • Balinese saka
  • Bengali
    • Bangladeshi
  • Berber
  • Burmese
  • Nông
    • Earthly Branches
    • Heavenly Stems
  • Ethiopian và Eritrean
  • Gaelic
  • Germanic heathen
  • Georgian
  • Do Thái
  • Hindu hoặc Ấn Độ
    • Vikram Samvat
    • Saka
  • Igbo
  • Iran
    • Jalali
      • thời Trung Cổ
    • Zoroastrian
  • Hồi giáo
    • Fasli
    • Tabular
  • Jain
  • Nhật Bản
  • Java
  • Hàn Quốc
    • Juche
  • Kurdish
  • Lithuanian
  • Maithili
  • Malayalam
  • Mandaean
  • Manipuri [Meitei]
  • Melanau
  • Mongolian
  • Nepal Sambat
  • Nisg̱a'a
  • Odia
  • Borana Oromo
  • Punjabi
    • Nanakshahi
  • Romanian
  • Shona
  • Somali
  • Sesotho
  • Slavic
    • Slavic Native Faith
  • Tamil
  • Dân quốc
  • Thái Lan
    • lunar
    • solar
  • Tibetan
  • Tripuri
  • Tulu
  • Việt Nam
  • Xhosa
  • Yoruba
  • Zulu
Các kiểu lịch
  • Runic
  • Mesoamerican
    • Long Count
    • Calendar round
Các biến thể của Cơ đốc giáo
  • Coptic
  • Ethiopian and Eritrean
  • Julia
    • Revised
  • Năm phụng vụ
    • Eastern Orthodox
  • Saints
Lịch sử
  • Arabian
  • Attic
  • Aztec
    • Tōnalpōhualli
    • Xiuhpōhualli
  • Babylonian
  • Bulgar
  • Byzantine
  • Cappadocian
  • Celtic
  • Cham
  • Culāsakaraj
  • Coligny
  • Egyptian
  • Enoch
  • Florentine
  • Cộng hòa Pháp
  • Germanic
  • Greek
  • Hindu
  • Inca
  • Macedonian
  • Maya
    • Haab'
    • Tzolk'in
  • Muisca
  • Pentecontad
  • Pisan
  • Qumran
  • Rapa Nui
  • La Mã
  • Rumi
  • Soviet
  • Swedish
  • Turkmen
Theo chuyên ngành
  • Holocen
    • nhân chủng học
  • Gregorius đón trước / Julius đón trước
    • sử học
  • Darian
    • Người Sao Hỏa
  • Dreamspell
    • Thời đại mới
  • Discordian
  • 'Pataphysical
Đề xuất
  • Hanke–Henry Permanent
  • International Fixed
  • Pax
  • Positivist
  • Symmetry454
  • World
Hư cấu
  • Discworld [Discworld]
  • Greyhawk [Dungeons & Dragons]
  • Middle-earth [Chúa tể những chiếc nhẫn]
  • Stardate [Star Trek]
  • Galactic Standard Calendar [Chiến tranh giữa các vì sao]
Trưng bày

ứng dụng
  • Electronic
  • Perpetual
  • Treo tường
Đặt tên năm
và đánh số Thuật ngữ
  • Era
  • Epoch
  • Tôn hiệu
  • Regnal year
  • Năm 0
Hệ thống
  • Ab urbe condita
  • Anka year
  • Công Nguyên/Common Era
  • Anno Mundi
  • Assyrian
  • Before Present
  • Hoàng gia Trung Quốc
  • Minguo Trung Quốc
  • English regnal year
  • Human [Holocene]
  • Nhật Bản
  • Triều Tiên
  • Seleucid
  • Spanish
  • Yugas
    • Satya
    • Treta
    • Dvapara
    • Kali
  • Việt Nam
List of calendars
Thể loại

Lịch này dùng năm nhuận để làm cho năm trung bình của nó dài 365,2425 ngày, xấp xỉ với năm nhiệt đới 365,2422 ngày được xác định bởi vòng quay của Trái Đất quanh Mặt trời. Quy tắc cho năm nhuận là:

  • Năm nào chính xác chia hết cho bốn là năm nhuận, ngoại trừ những năm chia hết cho 100, nhưng những năm chẵn trăm này sẽ là năm nhuận nếu chúng chính xác chia hết cho 400. Ví dụ, những năm 1700, 1800 và 1900 không phải là năm nhuận, còn những năm 1600 và 2000 lại là năm nhuận.[2]

Lịch này là một bản sửa đổi của lịch Julius và có hai khía cạnh khác biệt.[Note 1] Nó đã rút ngắn [lịch] trung bình của năm đi 0,0075 ngày để ngăn chặn sự trôi dạt của lịch đối với các điểm phân.[3] Để đối phó với sự sai lệch kể từ khi lịch Julius được sửa, ngày lịch mới đã được nâng lên 10 ngày; Thứ năm ngày 4 tháng 10 năm 1582 được theo sau là thứ sáu ngày 15 tháng 10 năm 1582.[Note 2] Có sự liên tục trong chu kỳ các ngày trong tuần và kỷ nguyên lịch Anno Domini.[Note 3] Cuộc cải cách này cũng thay đổi chu kỳ âm lịch được Giáo hội sử dụng để tính ngày cho Lễ Phục sinh, khôi phục nó về thời gian trong năm như ban đầu được Giáo hội sơ khai cử hành. Kỷ nguyên lịch này có tên thế tục thay thế là "Kỷ nguyên chung".

Việc cải cách lịch này ban đầu đã được các nước Công giáo ở Châu Âu và các thuộc địa ở nước ngoài của họ áp dụng. Trong ba thế kỷ tiếp theo, các nước Tin lành và Chính thống giáo phương Đông cũng chuyển sang cái mà họ gọi là lịch Cải tiến, với Hy Lạp là quốc gia châu Âu cuối cùng áp dụng lịch vào năm 1923.[5] Để chỉ định rõ ràng một ngày trong giai đoạn chuyển tiếp [hoặc trong các văn bản lịch sử], niên đại kép đôi khi được sử dụng để chỉ định ngày Kiểu cũ và Kiểu mới [viết tắt là OS và NS]. Trong suốt thế kỷ 20, hầu hết các nước không phải phương Tây cũng áp dụng lịch, ít nhất là cho các mục đích dân sự.

Một năm được chia thành mười hai tháng No. Tên Độ dài tính theo ngày
1 Tháng giêng 31
2 Tháng hai 28 [29 cho năm nhuận]
3 Tháng ba 31
4 Tháng tư 30
5 Tháng năm 31
6 Tháng sáu 30
7 Tháng bảy 31
8 Tháng tám 31
9 Tháng chín 30
10 Tháng mười 31
11 Tháng mười một 30
12 Tháng mười hai 31

Lịch Gregorius là lịch dương có 12 tháng, mỗi tháng 28-31 ngày. Một năm Gregorius thông thường bao gồm 365 ngày, nhưng trong một số năm nhất định được gọi là năm nhuận có một ngày nhuận được thêm vào tháng 2. Năm Gregorius được xác định bằng các số năm liên tiếp nhau.[6] Ngày lịch được chỉ định đầy đủ theo năm [được đánh số theo kỷ nguyên lịch, trong trường hợp này là Anno Domini hoặc Thời đại chung], tháng [được xác định bằng tên hoặc số], và ngày trong tháng [được đánh số liên tục bắt đầu từ 1]. Mặc dù năm dương lịch hiện chạy từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12, tại các thời điểm trước đó, các con số của năm dựa trên một điểm bắt đầu khác trong lịch [xem phần "đầu năm" bên dưới].

Trong lịch Julius, một năm nhuận xảy ra 4 năm một lần và ngày nhuận được thêm vào bằng cách nhân đôi ngày 24 tháng Hai. Cải cách lịch Gregorius đã bỏ qua ba ngày nhuận trong mỗi 400 năm và giữ nguyên ngày nhuận. Tuy nhiên, nó đã trở thành thông lệ trong thời kỳ hiện đại để đánh số ngày một cách tuần tự không có khoảng cách, và ngày 29 tháng 2 thường được coi là ngày nhuận. Trước khi sửa đổi Lịch La Mã năm 1969, Giáo hội Công giáo La Mã đã trì hoãn các ngày lễ tháng Hai sau ngày 23 một ngày trong những năm nhuận; Các thánh lễ được cử hành theo lịch trước đây vẫn phản ánh sự chậm trễ này.[7]

Chu kỳ lịch lặp lại hoàn toàn sau mỗi 400 năm, tương đương với 146.097 ngày.[Note 4][Note 5] Trong số 400 năm này, 303 là năm thông thường 365 ngày và 97 năm là năm nhuận gồm 366 ngày. Một năm dương lịch trung bình là 365 97/400 ngày = 365,2425 ngày, hoặc 365 ngày, 5 giờ, 49 phút và 12 giây.[Note 6]

  •  

    Christopher Clavius [1538–1612], một trong những tác giả chính của cuộc cải cách

  •  

    Giáo hoàng Grêgôriô XIII, chân dung do Lavinia Fontana vẽ, 16C.

  •  

    Trang đầu tiên của giáo hoàng Bull Inter gravissimas

  •  

    Chi tiết lăng mộ của Giáo hoàng của Camillo Rusconi [hoàn thành năm 1723]; Antonio Lilio bái gối trước Giáo hoàng, trình bày lịch in của mình.

Lịch Gregorius là một cuộc cải cách của lịch Julius. Nó được chính thức hóa bằng một tông sắc Inter gravissimas do Giáo hoàng Grêgôriô XIII thiết lập ngày 24 tháng 2 năm 1582, sau đó lịch được đặt tên theo vị giáo hoàng này.[3] Động lực cho việc điều chỉnh là đưa ngày cử hành Lễ Phục sinh vào thời điểm trong năm mà lễ này được cử hành bởi Giáo hội sơ khai. Sai sót trong lịch Julius [giả định rằng có chính xác 365,25 ngày trong một năm] đã dẫn đến ngày điểm phân theo lịch trôi đi so với thực tế được quan sát, và do đó một lỗi đã được đưa vào tính toán ngày của lễ Phục sinh. Mặc dù một khuyến nghị của Công đồng Nicaea đầu tiên vào năm 325 quy định rằng tất cả các Ki tô hữu nên tổ chức Lễ Phục sinh vào cùng một ngày, nhưng phải mất gần 5 thế kỷ trước khi hầu như tất cả các Ki tô hữu đạt được mục tiêu đó bằng cách áp dụng các quy tắc của Giáo hội Alexandria [xem Lễ Phục sinh để biết các vấn đề phát sinh].[Note 7]

Bối cảnh

Vì ngày lễ Phục sinh dựa trên tính toán của ngày xuân phân [bán cầu bắc], Giáo hội Công giáo coi là không thể chấp nhận được sự khác biệt ngày càng tăng giữa ngày chính tắc của điểm phân và thực tế được quan sát. Lễ Phục sinh được tổ chức vào Chủ nhật sau ngày trăng tròn của Giáo hội vào hoặc sau ngày 21 tháng 3, được coi là gần đúng với ngày phân tháng 3.[9] Các học giả châu Âu đã biết rõ về sự trôi dạt lịch từ đầu thời kỳ trung cổ.

Bêđa, viết vào thế kỷ 8, cho thấy rằng sai số tích lũy trong thời gian ông sống là hơn ba ngày. Roger Bacon trong khoảng năm 1200 ước tính chênh lệch là bảy hoặc tám ngày. Dante, viết c. 1300, nhận thức được sự cần thiết của một cuộc cải cách lịch. Nỗ lực đầu tiên để tiến tới một cuộc cải cách như vậy được Giáo hoàng Sixtus IV thực hiện, người vào năm 1475 đã mời Regiomontanus đến Vatican cho mục đích này. Tuy nhiên, dự án đã bị gián đoạn bởi cái chết của Regiomontanus ngay sau khi ông đến Rome.[10] Sự gia tăng kiến thức thiên văn và độ chính xác của các quan sát vào cuối thế kỷ 15 khiến vấn đề này trở nên cấp bách hơn. Nhiều ấn phẩm trong những thập kỷ tiếp theo đã kêu gọi cải cách lịch, trong số đó có hai bài báo do Đại học Salamanca gửi tới Vatican vào năm 1515 và 1578,[11] nhưng dự án đã không được tiếp tục cho đến những năm 1540, và chỉ được thực hiện dưới thời Giáo hoàng Grêgôriô XIII [r. 1572–1585].

Chuẩn bị

Năm 1545, Hội đồng Trent ủy quyền cho Giáo hoàng Phaolô III cải cách lịch, yêu cầu ngày xuân phân phải được khôi phục lại thành ngày mà nó đã tổ chức vào thời điểm của Công đồng Nicaea lần thứ nhất vào năm 325 và yêu cầu một sự thay đổi lịch được được thiết kế để ngăn chặn sự chênh lệch ngày trong tương lai. Điều này sẽ cho phép lên lịch chính xác và nhất quán hơn cho lễ Phục sinh.

Năm 1577, một Bản tổng hợp được gửi đến các nhà toán học chuyên nghiệp bên ngoài ủy ban cải cách để lấy ý kiến. Một số chuyên gia, bao gồm Giambattista Benedetti và Giuseppe Moleto, tin rằng Lễ Phục sinh nên được tính toán từ chuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng, thay vì sử dụng phương pháp bảng, nhưng những khuyến nghị này đã không được chấp nhận.[12] Cải cách được thông qua là sự sửa đổi đề xuất của bác sĩ người Calabria Aloysius Lilius [hay Lilio].[13]

Đề xuất của Lilius bao gồm việc giảm số năm nhuận trong bốn thế kỷ từ 100 xuống 97, bằng cách biến ba trong số bốn năm trung bình là phổ biến thay vì năm nhuận. Ông cũng đưa ra một kế hoạch thực tế và nguyên bản để điều chỉnh thời gian diễn ra của Mặt trăng khi tính toán ngày Lễ Phục sinh hàng năm, giải quyết một trở ngại lâu đời đối với việc cải cách lịch.

Bảng biểu thời cổ cung cấp kinh độ trung bình của Mặt trời.[14] Nhà toán học người Đức Christopher Clavius, kiến trúc sư của lịch Gregorius, lưu ý rằng các bảng thống nhất không thống nhất về thời điểm Mặt trời đi qua điểm phân cực cũng như về độ dài của năm nhiệt đới trung bình. Tycho Brahe cũng nhận thấy sự khác biệt này.[15] Quy tắc năm nhuận Gregorius [97 năm nhuận trong 400 năm] do Petrus Pitatus của Verona đưa ra vào năm 1560. Ông lưu ý rằng nó phù hợp với năm nhiệt đới của bảng Alfonsine và với năm nhiệt đới trung bình của Copernicus [De Revolutionutionibus] và Erasmus Reinhold [bảng Prutenic]. Ba năm nhiệt đới trung bình trong các phép tính theo giới tính của người Babylon là thời gian vượt quá 365 ngày [theo cách chúng sẽ được trích xuất từ bảng kinh độ trung bình] là 0; 14,33,9,57 [Alfonsine], 0; 14,33,11, 12 [Copernicus] và 0; 14,33,9,24 [Reinhold]. Trong ký hiệu thập phân, chúng tương ứng bằng 0,24254606, 0,24255185 và 0,24254352. Tất cả các giá trị đều giống nhau đến hai chữ số thập phân [0;14,33, bằng 0,2425 thập phân] và đây cũng là độ dài trung bình của năm Gregorius. Vì vậy, giải pháp của Pitatus sẽ được các nhà thiên văn học khen ngợi.[16]

Đề xuất của Lilius có hai thành phần. Đầu tiên, ông đề xuất điều chỉnh độ dài của năm. Năm chí tuyến trung bình dài 365,24219 ngày.[17] Một giá trị thường được sử dụng vào thời của Lilius, từ các bảng Alfonsine, là 365,2425463 ngày.[18] Vì độ dài trung bình của một năm Julius là 365,25 ngày, nên năm Julius dài hơn gần 11 phút so với năm chí tuyến trung bình. Sự khác biệt dẫn đến sự chênh lệch khoảng ba ngày sau mỗi 400 năm. Đề xuất của Lilius dẫn đến một năm trung bình là 365,2425 ngày. Vào thời điểm Gregorius cải tổ, đã có 10 ngày trôi qua kể từ Hội đồng Nicaea, dẫn đến điểm xuân phân rơi vào ngày 10 hoặc 11 tháng 3 thay vì ngày cố định theo giáo hội là ngày 21 tháng 3, và nếu không được sửa đổi thì nó sẽ trôi đi xa hơn. Lilius đề xuất rằng sự trôi dạt 10 ngày nên được điều chỉnh bằng cách xóa ngày nhuận Julius trên mỗi lần trong số mười lần xuất hiện của nó trong khoảng thời gian bốn mươi năm, do đó tạo điều kiện cho điểm phân quay trở lại dần dần vào ngày 21 tháng 3.

Tác phẩm của Lilius đã được Christopher Clavius mở rộng trong một tập 800 trang được lập luận chặt chẽ. Sau đó ông bảo vệ công việc của mình và của Lilius trước những lời gièm pha. Ý kiến của Clavius là sự điều chỉnh nên diễn ra trong một động thái, và chính lời khuyên này đã thuyết phục được Grêgôriô.

Thành phần thứ hai bao gồm một ước tính sẽ cung cấp một lịch chính xác nhưng đơn giản, dựa trên quy tắc. Công thức của Lilius là một hiệu chỉnh trong 10 ngày để hoàn nguyên sự trôi dạt kể từ Hội đồng Nicaea, và việc áp đặt một ngày nhuận chỉ trong 97 năm vào 400 thay vì 1 năm trong 4. Quy tắc được đề xuất là các năm chia hết cho 100 sẽ chỉ là năm nhuận nếu chúng cũng chia hết cho 400.

Chu kỳ 19 năm được sử dụng cho âm lịch cũng được sửa lại một ngày sau mỗi 300 hoặc 400 năm [8 lần trong 2500 năm] cùng với việc sửa chữa cho những năm không còn là năm nhuận [tức là 1700, 1800, 1900, 2100, v.v. Trên thực tế, một phương pháp mới để tính toán ngày Lễ Phục sinh đã được giới thiệu.

Khi lịch mới được đưa vào sử dụng, lỗi tích lũy trong 13 thế kỷ kể từ Hội đồng Nicaea đã được sửa chữa bằng cách xóa đi 10 ngày. Ngày đầu tiên của lịch Julius là thứ Năm, ngày 4 tháng 10 năm 1582 được theo sau bởi ngày đầu tiên của lịch Gregory, thứ sáu, ngày 15 tháng 10 năm 1582 [chu kỳ các ngày trong tuần không bị ảnh hưởng].

Lịch Gregorius in lần đầu tiên

 

Lunario Novo, Secondo la Nuova Riforma della Correttione del l'Anno Riformato da NS Gregorio XIII, được in tại Rome bởi Vincenzo Accolti năm 1582, một trong những ấn bản in đầu tiên của lịch mới.

Một tháng sau khi ra quyết định cải tổ, giáo hoàng [với bản tóm tắt là ngày 3 tháng 4 năm 1582] đã trao cho một Antoni Lilio quyền độc quyền xuất bản lịch trong thời hạn mười năm. Lunario Novo secondo la nuova riforma low[a] được in bởi Vincenzo Accolti, một trong những cuốn lịch đầu tiên được in ở Rome sau cuộc cải cách, ghi chú ở cuối rằng nó đã được ký với sự ủy quyền của Giáo hoàng và Lilio [Con licentia delli Superiori... et permissu Ant [onii] Lilij]. Bản tóm tắt của Giáo hoàng bị thu hồi vào ngày 20 tháng 9 năm 1582, vì Antonio Lilio tỏ ra không thể đáp ứng kịp nhu cầu về các bản sao.[19]

Áp dụng

Mặc dù cải cách của Grêgôriô đã được ban hành theo những hình thức trang trọng nhất dành cho Giáo hội, tông sắc của ông không có thẩm quyền ngoài Giáo hội Công giáo và các Quốc gia Giáo hoàng. Những thay đổi mà ông đề xuất là những thay đổi đối với lịch dân sự mà ông không có thẩm quyền. Họ yêu cầu các cơ quan dân sự ở mỗi quốc gia phải thông qua để có hiệu lực pháp lý.

Tông sắc Inter gravissimas đã trở thành luật của Giáo hội Công giáo vào năm 1582, nhưng nó không được các Giáo hội Tin lành, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, Giáo hội Chính thống giáo cổ Đông phương và một số giáo hội khác công nhận. Do đó, những ngày mà Lễ Phục sinh và các ngày lễ liên quan được cử hành bởi các Giáo hội Cơ đốc khác nhau là khác nhau.

Vào ngày 29 tháng 9 năm 1582, Philip II của Tây Ban Nha ra lệnh thay đổi từ lịch Julius sang lịch Gregorius.[20] Điều này ảnh hưởng phần lớn đến Châu Âu theo Công giáo La Mã, vì lúc đó Philip là người cai trị Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cũng như phần lớn nước Ý. Tại các vùng lãnh thổ này, cũng như trong Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva  [do Anna Jagiellon cai trị] và ở các Quốc gia Giáo hoàng, lịch mới được thực hiện vào ngày do tông sắc trên chỉ định, với Thứ Năm Julius, ngày 4 tháng 10 năm 1582, tiếp theo là Thứ Sáu Gregorius, ngày 15 tháng 10 năm 1582. Các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã theo sau trên thực tế một chút vì sự chậm trễ trong liên lạc.[21]

Nhiều quốc gia theo Kháng Cách ban đầu phản đối việc áp dụng một sự đổi mới lịch của Công giáo; một số người theo Kháng Cách lo sợ lịch mới là một phần của âm mưu đưa họ trở lại với dòng Công giáo. Ví dụ, người Anh không dám áp dụng hệ thống lịch của Công giáo một cách rõ ràng: Phụ lục về Lịch của họ [Phong cách mới] Đạo luật năm 1750 đã thiết lập một phép tính cho ngày Lễ Phục sinh đạt được kết quả tương tự như các quy tắc của Grêgôriô, mà không thực sự nhắc đến ông.[22]

Anh và Đế quốc Anh [bao gồm cả phần phía đông của vùng ngày nay là Hoa Kỳ] đã thông qua lịch Gregorius vào năm 1752. Thụy Điển cũng áp dụng lịch này vào năm 1753.

Trước năm 1917, Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng âm lịch Hồi giáo với thời đại Hegira cho các mục đích chung và lịch Julius cho các mục đích tài chính. Ngày bắt đầu năm tài chính cuối cùng được ấn định vào ngày 1 tháng 3 và số năm gần tương đương với năm Hegira [xem lịch Rumi]. Vì năm mặt trời dài hơn năm âm lịch, điều này ban đầu dẫn đến việc sử dụng "năm thoát" thường xuyên khi con số của năm tài chính sẽ tăng vọt. Từ ngày 1 tháng 3 năm 1917, năm tài chính trở thành năm theo lịch Gregorius thay vì theo lịch Julius. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1926, việc sử dụng lịch Gregorius đã được mở rộng để bao gồm việc sử dụng cho các mục đích chung và số của năm trở nên giống như ở hầu hết các quốc gia khác.

Áp dụng theo quốc gia

Năm Quốc gia Khu vực
1582 Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ba Lan, Ý, Các nước Công giáo thấp, Luxemburg và các thuộc địa
1584 Vương quốc Bohemia
1610 Nước Phổ
1648 Alsace
1682 Strasbourg
1700 Đức,[Note 8] bang của Thụy Sĩ, Các quốc gia theo đạo Tin lành, Na Uy, Đan Mạch
1752 Anh và các thuộc địa
1753 Thụy Điển và Phần Lan
1873 Nhật Bản
1875 Ai Cập
1896 Hàn Quốc
1912 Trung Quốc, Albania
1915 Latvia, Litva
1916 Bungari
1918 Nga, Estonia
1919 Romania, Nam Tư[Note 9]
1923 Hy Lạp
1926 Thổ Nhĩ Kỳ
2016 Ả Rập Xê Út
Chuyển đổi từ ngày Julius sang ngày Gregorius.[23] Phạm vi lịch Gregorius Phạm vi lịch Julius Sự khác biệt
Từ ngày 15 tháng 10 năm 1582
đến ngày 28 tháng 2 năm 1700
Từ ngày 5 tháng 10 năm 1582
đến ngày 18 tháng 2 năm 1700
10 ngày
Từ ngày 1 tháng 3 năm 1700
đến ngày 28 tháng 2 năm 1800
Từ ngày 19 tháng 2 năm 1700
đến ngày 17 tháng 2 năm 1800
11 ngày
Từ ngày 1 tháng 3 năm 1800
đến ngày 28 tháng 2 năm 1900
Từ ngày 18 tháng 2 năm 1800
đến ngày 16 tháng 2 năm 1900
12 ngày
Từ ngày 1 tháng 3 năm 1900
đến ngày 28 tháng 2 năm 2100
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1900
đến ngày 15 tháng 2 năm 2100
13 ngày
Từ ngày 1 tháng 3 năm 2100
đến ngày 28 tháng 2 năm 2200
Từ ngày 16 tháng 2 năm 2100
đến ngày 14 tháng 2 năm 2200
14 ngày

Phần này luôn đặt ngày nhuận vào ngày 29 tháng 2 mặc dù nó luôn được lấy bằng cách nhân đôi hai ngày 24 tháng 2 [bissextum [hai lần thứ sáu] cho đến cuối thời Trung cổ. Lịch Gregorius được giả lập cho các mốc ngày trước 1582, và sự khác biệt giữa Gregorius và ngày lịch Julius tăng ba ngày mỗi bốn thế kỷ [đã bao gồm tất cả các phạm vi ngày].

Phương trình sau đây cho biết số ngày [thực tế là ngày] mà lịch Gregorius đi trước lịch Julius, được gọi là sự khác biệt thế tục giữa hai lịch. Một sự khác biệt giá trị âm có nghĩa là lịch Julius đi trước lịch Gregorius.[24]

D = ⌊ Y / 100 ⌋ − ⌊ Y / 400 ⌋ − 2 {\displaystyle D=\left\lfloor {Y/100}\right\rfloor -\left\lfloor {Y/400}\right\rfloor -2}  

với D {\displaystyle D}   là sự khác biệt thế tục và Y {\displaystyle Y}   là năm sử dụng cách đánh số năm thiên văn, tức là sử dụng [năm trước CN] − 1 cho các năm trước Công nguyên. ⌊ x ⌋ {\displaystyle \left\lfloor {x}\right\rfloor }   có nghĩa là nếu kết quả của phép chia không phải là số nguyên thì nó được làm tròn xuống số nguyên gần nhất. Do đó trong những năm 1900, 1900/400 = 4, trong khi −500s, −500/400 = −2.

Quy tắc chung, trong những năm là năm nhuận trong lịch Julius nhưng không phải là lịch Gregorius, là:

Tính đến ngày 28 tháng 2 trong lịch đang được chuyển đổi from thêm một ngày ít hoặc trừ một ngày nhiều hơn giá trị tính toán. Cho tháng Hai số ngày thích hợp để chuyển đổi sang lịch. Khi trừ ngày để tính Gregorius tương đương với ngày 29 tháng 2 [Julius], thì ngày 29 tháng 2 bỏ không đếm. Do đó, nếu giá trị được tính toán là −4 thì tương đương với Gregorius của ngày này là ngày 24 tháng Hai.[25]

Quốc gia Năm bắt đầu
vào ngày 1 tháng 1 Năm áp dụng
Lịch Gregorius
Đan Mạch Thay đổi dần dần từ
thế kỷ 13 đến 16[26]
1700
Đế chế La Mã Thần thánh
[các quốc gia Công giáo]
1544 1583
Tây Ban Nha, Ba Lan, Bồ Đào Nha 1556 1582
Đế chế La Mã Thần thánh
[các quốc gia Tin lành]
1559 1700[Note 8]
Thụy Điển 1559 1753
Pháp 1564[28] 1582[n 1]
Nam Hà Lan 1576[29] 1582
Lorraine 1579 1582[Note 10]
Cộng hòa Hà Lan 1583 1582
Scotland 1600[30][31] 1752
Nga 1700[32] 1918
Tuscany 1750[33] 1582[34]
Vương quốc Anh và Đế quốc Anh
ngoại trừ Scotland
1752 1752
Venice 1797[35] 1582

Năm được sử dụng trong các ngày trong thời Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã là năm lãnh sự, bắt đầu vào ngày các quan lãnh sự lần đầu tiên nhậm chức — có thể là ngày 1 tháng 5 trước năm 222 trước Công nguyên, ngày 15 tháng 3 từ năm 222 trước Công nguyên và ngày 1 tháng 1 từ năm 153 trước Công nguyên.[36] Lịch Julius, bắt đầu từ năm 45 trước Công nguyên, tiếp tục sử dụng ngày 1 tháng 1 là ngày đầu tiên của năm mới. Mặc dù năm được sử dụng cho ngày thay đổi, năm dân sự luôn hiển thị các tháng của nó theo thứ tự từ tháng 1 đến tháng 12 từ thời Cộng hòa La Mã cho đến nay.

Trong thời Trung cổ, dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo, nhiều quốc gia Tây Âu đã chuyển đầu năm sang một trong những lễ hội quan trọng của Cơ đốc giáo — 25 tháng 12 [được cho là Lễ giáng sinh của Giê-su], 25 tháng 3 [Truyền tin], hoặc Lễ Phục sinh [Pháp],[37] trong khi Đế chế Byzantine bắt đầu thành niên vào ngày 1 tháng 9 và Nga làm như vậy vào ngày 1 tháng 3 cho đến năm 1492 khi năm mới được chuyển sang ngày 1 tháng 9.[38]

Theo cách sử dụng phổ biến, ngày 1 tháng 1 được coi là Ngày đầu năm mới và được tổ chức như vậy,[39] nhưng từ thế kỷ 12 cho đến năm 1751, năm hợp pháp ở Anh bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 [Ngày Phụ nữ].[40] Vì vậy, ví dụ, hồ sơ của Nghị viện liệt kê vụ hành quyết Charles I vào ngày 30 tháng 1 như xảy ra vào năm 1648 [vì năm đó không kết thúc cho đến ngày 24 tháng 3],[41] mặc dù các sử sách sau đó điều chỉnh thời điểm bắt đầu năm thành ngày 1 tháng 1 và ghi lại vụ hành quyết xảy ra vào năm 1649.[42]

Hầu hết các nước Tây Âu đã thay đổi ngày bắt đầu của năm thành ngày 1 tháng 1 trước khi họ áp dụng lịch Gregorius. Ví dụ, Scotland đã thay đổi ngày bắt đầu của Năm mới Scotland thành ngày 1 tháng 1 năm 1600 [điều này có nghĩa là năm 1599 là một năm ngắn ngủi]. Anh, Ireland và các thuộc địa của Anh đã thay đổi ngày bắt đầu của năm thành ngày 1 tháng 1 năm 1752 [vì vậy năm 1751 là một năm ngắn chỉ có 282 ngày] mặc dù ở Anh, ngày bắt đầu của năm tính thuế vẫn là ngày 25 tháng 3 [OS], ngày 5 tháng 4 [NS] cho đến năm 1800, khi nó chuyển sang ngày 6 tháng 4. Sau đó vào năm 1752 vào tháng 9, lịch Gregorius đã được giới thiệu trên khắp nước Anh và các thuộc địa của Anh. Hai cải cách này được thực hiện bởi Đạo luật Lịch [kiểu mới] năm 1750.[43]

Ở một số quốc gia, một nghị định hoặc luật chính thức quy định rằng ngày bắt đầu của năm phải là ngày 1 tháng Giêng. Đối với những quốc gia như vậy, một năm cụ thể khi ngày 1 tháng Giêng trở thành tiêu chuẩn có thể được xác định. Ở các quốc gia khác, phong tục tập quán khác nhau, và thời điểm đầu năm di chuyển qua lại do thời trang và ảnh hưởng từ các quốc gia khác quyết định nhiều phong tục khác nhau.

Cả tông sắc của Giáo hoàng và các giáo luật đính kèm của nó đều không ấn định ngày như vậy một cách rõ ràng, mặc dù nó được ngụ ý bởi hai bảng ngày của các thánh, một bảng được dán nhãn 1582 kết thúc vào ngày 31 tháng 12 và bảng khác cho bất kỳ năm nào bắt đầu vào ngày 1 tháng Giêng. Nó cũng chỉ định thời gian của nó liên quan đến ngày 1 tháng 1, trái ngược với lịch Julius, nó chỉ định nó liên quan đến ngày 22 tháng 3. Ngày cũ bắt nguồn từ hệ thống tiếng Hy Lạp: Supputatio Romana trước đó đã chỉ định nó liên quan đến ngày 1 tháng Giêng.

 

Hình khắc trên mộ của Giáo hoàng Gregorius XIII, kỷ niệm sự việc ban hành lịch Gregorius.

Vì sự thông tin chậm trễ và vì lý do tôn giáo, nhiều nước không áp dụng lịch Gregorius ngay sau đó. Nước Anh [và Hoa Kỳ lúc còn là thuộc địa của Anh] mãi đến 1752 mới theo lịch này, và khi đó phải bỏ bớt 11 ngày trong lịch [do đó George Washington sinh ngày 11 tháng 2 năm 1732, nhưng Hoa Kỳ ăn mừng sinh nhật của ông vào ngày 22 tháng 2]. Nga chỉ theo lịch này sau năm 1917, do đó Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra vào tháng 11 dương lịch. Một số nhà thờ Chính thống giáo [ví dụ như ở Nga, Serbia và Georgia] tiếp tục tổ chức lễ hội tôn giáo theo lịch Julius. Lễ Giáng sinh của họ [ngày 25 tháng 12] hiện tại vào ngày 7 tháng 1 [lịch Gregorius]. Tất cả các nhà thờ Chính thống đều tính lễ Phục sinh và các lễ hội di chuyển khác theo đầu xuân lịch Julius và theo trăng tròn; lễ hội do đó chỉ trùng hợp thỉnh thoảng với ngày lễ Phục sinh của các hội thánh phương Tây; thường là một, bốn hoặc năm tuần sau đó ở phương Tây.

Tại Việt Nam, Tây lịch được áp dụng ở các công sở khi người Pháp ép triều đình Huế nhận nền bảo hộ vào cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên lịch Hiệp kỷ vẫn được nhà Nguyễn duy trì song hành. Lịch Gregorius chính thức được dùng kể từ năm 1946 trở đi.[44]

  • Năm 0
  1. ^ The Julian calendar assumed incorrectly that the average year is exactly 365.25 days long.
  2. ^ Since the First Council of Nicaea and first Easter of AD 325, instead of 45 BC when Julian calendar was adopted.
  3. ^ Two era names occur within the bull Inter gravissimas itself, anno Incarnationis dominicæ ["in the year of the Incarnation of the Lord"] for the year it was signed and anno à Nativitate Domini nostri Jesu Christi ["in the year from the Nativity of our Lord Jesus Christ"] for the year it was printed.[4]
  4. ^ The cycle described applies to the solar, or civil, calendar. If one also considers the ecclesiastical lunar rules, the lunisolar Easter computus cycle repeats only after 5,700,000 years of 2,081,882,250 days in 70,499,183 lunar months, based on an assumed mean lunar month of 29 days 12 hours 44 minutes 2 49928114/70499183 seconds. [Seidelmann [1992], p. 582] [To properly function as an Easter computus, this lunisolar cycle must have the same mean year as the Gregorian solar cycle, and indeed that is exactly the case.]
  5. ^ The extreme length of the Gregorian Easter computus is due to its being the product of the 19-year Metonic cycle, the thirty different possible values of the epact, and the least common multiple [10,000] of the 400-year and 2,500-year solar and lunar correction cycles.[8]
  6. ^ The same result is obtained by summing the fractional parts implied by the rule: 365 + 1/41/100 + 1/400 = 365 + 0.25 − 0.01 + 0.0025 = 365.2425
  7. ^ The last major Christian region to accept the Alexandrian rules was the Carolingian Empire [most of Western Europe] during 780–800. The last monastery in England to accept the Alexandrian rules did so in 931, and a few churches in southwest Asia beyond the eastern border of the Byzantine Empire continued to use rules that differed slightly, causing four dates for Easter to differ every 532 years.
  8. ^ a b Protestant states in Germany used an astronomical Easter from 1700 to 1774, based on Kepler's Rudolphine Tables, differing from the Gregorian Easter twice, one week early in 1724 and 1744.[27]
  9. ^ 1919 in the regions comprising the former Kingdoms of Serbia and Montenegro [present-day Kosovo, Montenegro, Serbia and North Macedonia]. The western and northern regions of what became Yugoslavia were already using the Gregorian calendar. For example, most of Slovenia adopted the Gregorian calendar at the same time as Áo in 1583. Coastal Croatia, which was at the time ruled by Venice, adopted the Gregorian calendar in 1582. Inland Croatia, ruled by the Habsburgs, adopted it in 1587 along with Hungary. The Gregorian calendar was used in Bosna và Hercegovina since the 16th century by the Catholic population and was formally adopted for government use in 1878 following occupation by Austria-Hungary.
  10. ^ Lorraine reverted to Julian in 1735 and adopted Gregorian again in 1760
  1. ^ "New Almanac according to the new reform".
  1. ^ In 1793 France abandoned the Gregorian calendar in favour of the French Republican Calendar. This change was reverted in 1805.

  1. ^ Dershowitz & Reingold 2008, p. 45. "The calendar in use today in most of the world is the Gregorian or new-style calendar designed by a commission assembled by Pope Gregory XIII in the sixteenth century."
  2. ^ Introduction to Calendars Lưu trữ 2019-06-13 tại Wayback Machine. [ngày 15 tháng 5 năm 2013]. United States Naval Observatory.
  3. ^ a b See Wikisource English translation of the [Latin] 1582 papal bull Inter gravissimas.
  4. ^ Les canons of Les textes fondateurs du calendrier grégorien [tiếng Latinh và Pháp]
  5. ^ Blegen n.d.
  6. ^ Clause 3.2.1 ISO 8601
  7. ^ Richards 1998, p. 101
  8. ^ Walker [1945], p.218.
  9. ^ Richards 2013, p. 599.
  10. ^ Ari Ben-Menahem, Historical Encyclopedia of Natural and Mathematical Sciences vol. 1 [2009], p. 863.
  11. ^ Carabias Torres, 2012, p. 241
  12. ^ Ziggelaar [1983], pp. 211, 214.
  13. ^ Moyer 1983.
  14. ^
    • See, for example,Tabule illustrissimi principis regis alfonsii, Prague 1401−4 [Latin]. A full set of Alphonsine Tables [including tables for mean motions, conjunctions of Sun and Moon, equation of time, spherical astronomy, longitudes and latitudes of cities, star tables, eclipse tables].
    • For an example of the information provided see Jacques Cassini, Tables astronomiques du soleil, de la lune, des planètes, des étoiles fixes, et des satellites de Jupiter et de Saturne, Paris 1740, available at [1] [go forward ten pages to Table III on p. 10].
  15. ^
    • Dreyer, J L E [2014]. Tycho Brahe. Cambridge. tr. 52. ISBN 978-1-108-06871-0. He remarks that both the Alphonsine and the Prutenic Tables are several hours wrong with regard to the time of the equinoxes and solstices.
    • North, J [1989]. The Universal frame: historical essays in astronomy, natural philosophy and scientific method. London. tr. 29. ISBN 978-0-907628-95-8. He noted on one occasion that the Alphonsine tables differed from the Prutenic by nineteen hours as to the time of the vernal equinox of 1588.
  16. ^ Swerdlow [1986].
  17. ^ Meeus and Savoie [1992].
  18. ^ Moyer [1983]. p.
  19. ^ Mezzi, E., and Vizza, F., Luigi Lilio Medico Astronomo e Matematico di Cirò, Laruffa Editore, Reggio Calabria, 2010, p. 14; p. 52, citing as primary references: Biblioteca Nazionale Centrale die Firenze, Magl. 5.10.5/a, ASV A.A., Arm. I‑XVIII, 5506, f. 362r.
  20. ^ Kamen, Henry [1998]. Philip of Spain. Yale University Press. tr. 248. ISBN 978-0300078008.
  21. ^ "Pragmatica" on the Ten Days of the Year World Digital Library, the first known South American imprint, produced in 1584 by Antonio Ricardo, of a four-page edict issued by King Philip II of Spain in 1582, decreeing the change from the Julian to the Gregorian calendar.
  22. ^ 24 Geo. II Ch. 23, § 3.
  23. ^ A more extensive list is available at Conversion between Julian and Gregorian calendars
  24. ^ Blackburn & Holford-Strevens [1999], p. 788.
  25. ^
    • James Evans, The history and practice of ancient astronomy [Oxford: Oxford University Press, 1998] 169. ISBN 0-19-509539-1.
    • Explanatory Supplement to The Astronomical Ephemeris and The American Ephemeris and Nautical Almanac [London: Her Majesty's Stationery Office, 1961] 417.
  26. ^ Herluf Nielsen: Kronologi [2nd ed., Dansk Historisk Fællesforening, Copenhagen 1967], pp. 48–50.
  27. ^ Lamont, Roscoe [1920], “The reform of the Julian calendar”, Popular Astronomy, 28: 18–32
  28. ^ Le calendrier grégorien en France [tiếng Pháp]
  29. ^ Per decree of ngày 16 tháng 6 năm 1575. Hermann Grotefend, "Osteranfang" [Easter beginning], Zeitrechnung de Deutschen Mittelalters und der Neuzeit [Chronology of the German Middle Ages and modern times] [1891–1898]
  30. ^ Blackburn & Holford-Strevens [1999], p. 784.
  31. ^ John James Bond, Handy-book of rules and tables for verifying dates with the Christian era Scottish decree on pp. xvii–xviii.
  32. ^ Roscoe Lamont, The reform of the Julian calendar, Popular Astronomy 28 [1920] 18–32. Decree of Peter the Great is on pp. 23–24.
  33. ^
    • Alexandre Dumas, Storia del governo della Toscana: sotto La casa de'Medici.
    • Il calendario fiorentino.
  34. ^ Lorenzo Cattini, Legislazione toscana raccolta e illustrata, vol. 10, p. 208.
  35. ^ Fora Febraro.
  36. ^ “Roman Dates: Eponymous Years”. Tyndalehouse.com. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
  37. ^ Mike Spathaky Old Style and New Style Dates and the change to the Gregorian Calendar: A summary for genealogists
  38. ^ S. I. Seleschnikow: Wieviel Monde hat ein Jahr? [Aulis-Verlag, Leipzig/Jena/Berlin 1981, p. 149], which is a German translation of С. И. Селешников: История календаря и хронология [Издательство "Наука", Moscow 1977]. The relevant chapter is available online here: История календаря в России и в СССР [Calendar history in Russia and the USSR]. Anno Mundi 7000 lasted from ngày 1 tháng 3 năm 1492 to ngày 31 tháng 8 năm 1492. [tiếng Nga]
  39. ^ Tuesday ngày 31 tháng 12 năm 1661, The Diary of Samuel Pepys "I sat down to end my journell for this year,..."
  40. ^ Nørby, Toke. The Perpetual Calendar: What about England Version ngày 29 tháng 2 năm 2000
  41. ^ “House of Commons Journal Volume 8, ngày 9 tháng 6 năm 1660 [Regicides]”. British History Online. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2007.
  42. ^ Death warrant of Charles I web page of the UK National Archives. A demonstration of New Style meaning Julian calendar with a start of year adjustment.
  43. ^ Nørby, Toke. The Perpetual Calendar
  44. ^ "Âm lịch Việt Nam"

  • Âm lịch, dương lịch, năm nhuận trên Vietsciences [tiếng Việt]
  • Inter gravissimas Lưu trữ 2000-08-23 tại Wayback Machine [tiếng Latinh] [tiếng Pháp]
  • Inter gravissimas [tiếng Latinh] [tiếng Pháp] [tiếng Anh]
Các hệ thống lịch đang được sử dụng Dương lịch [lịch Gregorius]Âm lịch [lịch mặt trăng] • Julius • Do Thái • Hồi giáo • Shamsi Hijri

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lịch_Gregorius&oldid=68069925”

Video liên quan

Chủ Đề