Vì sao người việt cổ có tục nhuộm răng

Những câu hỏi liên quan

Vì sao người Việt vẫn giữ được tiếng nói, phong tục tập quán của mình?

Nhưng, hình ảnh ấy dường như đã trở thành quá khứ xa xưa, chỉ là, cái hồn của nó vẫn còn ở đâu đây, vẫn khiến chúng ta nhớ về như một kỉ niệm thân thương, khó phai trong lòng.

Vậy tục nhuộm răng đen từ đâu mà có?

Nhuộm răng là tục cổ của dân tộc Việt, có từ thời Hùng Vương cùng với tục ăn trầu đã trở thành nét văn hóa đặc trưng của bộ tộc người Việt để phân biệt với các sắc dân khác.

Không chỉ người Việt mới có tục nhuộm răng mà các dân tộc khác như Mường, Thái, Si La... cũng có tục này nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thời gian, cách nhuộm và chất liệu sử dụng.

Vì sao ngày xưa, phụ nữ hay nhuộm răng đen

Trước hết là bắt đầu từ quan niệm thẩm mỹ. Xa xưa và cả ngày nay, các cụ ta hay ăn trầu. Ngày trước, gần như tục ăn trầu là một thói quen không thể nào thiếu của người Việt, từ người lớn đến người trung niên. Và vì ăn trầu răng sẽ đen nên người ta nghĩ ra việc nhuộm răng đen cho hợp thẩm mỹ, để trở thành một màu đen tuyền đẹp bóng, chứ không phải màu đen ố như của màu trầu.

Biểu tượng sắc đẹp của thời ấy chính là da trắng, răng đen. Nên các cô gái rất chuộng hàm răng có màu đen này. Cô nào có răng càng đen, càng bóng và nước da càng trắng thì càng được các đáng mày râu theo đuổi.

Tục nhuộm răng từ đó đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu trong cộng đồng người Việt. Ai không nhuộm răng thì nhất định bị coi là đi ngược lại tập tục và không được đón nhận. Những người không nhuộm răng thì không được đến cưới hỏi.

Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng, vì ở đó các ông hoàng bà chúa, các cung tần mỹ nữ, tầng lớp quan lại, nho sĩ, các cô chiêu, cậu ấm rất ưa chuộng việc nhuộm răng. Thuốc nhuộm răng của người Việt xưa phải có một công thức pha chế riêng: Bột nhựa cánh kiến, Nước cốt chanh hay hạnh, Phèn đen, Nhựa của gáo dừa.

Người phụ nữ xưa với hình ảnh hàm răng đen [ảnh minh họa]

Việc nhuộm răng phải tuân theo từng giai đoạn làm sao cho răng đạt màu đen bóng. Để khởi đầu cho việc nhuộm răng thì miệng và răng phải được làm vệ sinh, phải chuẩn bị hàm răng cho thật sạch. Không được có bợn, bả răng trong các kẽ và chân răng, phải lấy hết cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được. Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối sống hầm chín thành bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh. Tác dụng của nước cốt làm cho lớp men ngoài răng “mềm” đi, tính acid của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, hai hàm răng lung lay gần như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó từ 7 đến 10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Ở thôn quê, người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng.

. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới.

Đến sáng sẽ gỡ ra lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau đó phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua, để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng phải ngậm miệng suốt đêm, tránh để miếng thuốc nhuộm bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt chửng thức ăn chứ không được nhai. Khi thấy răng có màu đỏ già [màu của cánh kiến] thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày.

Phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng gọi là "giết răng". Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu.

Được bảo vệ cẩn thận răng nhuộm có thể giữ màu đen bóng 20, 30 năm. Muốn cho hàm răng lúc nào cũng đen nhánh thì độ một năm lại nhuộm bồi thêm một lớp. Răng không được chăm sóc sẽ bị phai màu, loang lổ gọi là "răng cải mả", trông không đẹp.

Tục nhuộm răng đen còn tồn tại mãi đến khi sang thế kỷ 20, khi nền văn hóa phương Tây xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, chúng ta mới phá bỏ tục lệ này.

Những người phụ nữ răng đem, da trắng đã đi vào trong thơ ca, điển tích của người Việt:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng,

Bõ công trang điểm má hồng răng đen.

Cũng đủ hẳn biết, tục răng đen ngày trước quan trọng và thẩm mỹ như thế. Dù cho ngày nay, tục này đã lưu vào dĩ vãng và hình ảnh những người phụ nữ răng đen cũng ít ai nhắc đến nhưng nó vẫn mãi là một tập tục đẹp, ăn sâu vào tiềm thức và tâm hồn người Việt để đời sau nhớ mãi không quên.

Theo Nam Châm/tổng hợp theo Wiki [Khám phá]

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Nhuộm răng là một trong những phong tục xưa của nhiều dân tộc ở Đông Á, như Việt Nam, Nhật Bản, Malaysia và miền Nam Trung Quốc.

Thiếu nữ Bắc Kỳ với hàm răng đen nhánh vào đầu thế kỷ 20

Tại Việt Nam, ngoài người Kinh, các dân tộc khác như Thái, Si La, Tày, Dao đều có tục này; nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm.

Theo các truyện cổ tích Việt Nam thì từ hàng nghìn năm trước người Việt đã có tục nhuộm răng. Theo truyền thuyết Việt Nam tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu.

Khoảng vào năm 1862, khi nền văn minh Tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, và nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, phong tục này mới bị mai một đi mất

Nhật Bản

 

Tranh mộc bản Ukiyo-e với nhân vật có hàm răng đen

Tại Nhật Bản, tục nhuộm răng đen gọi là Ohaguro [お歯黒?, âm Hán Việt: xỉ hắc]. Lối trang sức này thường dành cho phụ nữ đã có chồng nhưng nam giới cũng theo, coi như một cách ngừa sâu răng tương tự như chất trám răng của nha khoa hiện đại. Tục này cũng được nhắc đến trong Truyện kể Genji.[1]

Vào cuối thời Heian, tục nhuộm răng khá phổ biến trong giới quý tộc. Nam giới và con gái đến tuổi dậy thì đều theo. Ngoài ra Gia tộc Taira và các võ sĩ samurai thì đến các đền chùa xin nhuộm răng và vẽ lông mày. Hoàng tộc Nhật Bản giữ lệ nhuộm răng đen cuối thời đại Edo mới bỏ.

Sau thời kỳ Edo, lệ này chỉ có một số người theo như nam giới quý tộc, phụ nữ có chồng. Gái mại dâm và geisha cũng giữ tục nhuộm răng. Đối với dân quê tục nhuộm răng được gắn liền với việc hiếu hỷ [lễ cưới, đám tang].

Ngày 5 Tháng Hai năm 1870, triều đình Nhật Bản ra lệnh cấm tục nhuộm răng nên lệ này mai một dần đến hết thời Minh Trị. Sang triều Taisho thì gần như mất hẳn.

Nhật Bản ngày nay không còn tục nhuộm răng nhưng trong các phim kịch và sách truyện lịch sử vẫn còn nhắc đến. Ngoài ra giới geisha đôi khi còn thực hiện nên khách ghé hanamachi [xóm làng chơi] thỉnh thoảng vẫn còn thấy người răng đen.

 

Một bà lão răng nhuộm đen vào đầu thế kỷ 21 khi tập tục này chỉ còn thấy ở giới cao niên

Trong những tập tục của người Việt, khi trẻ con thay răng sữa, nếu là răng hàm dưới thì vứt răng xuống gầm giường, còn trên thì vứt lên mái nhà và hô 3 tiếng cho "ông thiêng" cho nó tha đi để mà mau mọc răng.

Người ta chỉ nhuộm răng sau khi đã thay toàn bộ răng sữa, thời gian đó là thích hợp nhất để nhuộm vì lúc ấy răng còn non, độ thấm của thuốc nhuộm dễ gắn chặt vào men và ngà răng hơn. Người bình dân thường nhuộm theo phương pháp đơn giản, nhưng người giàu có hay quan lại lại nhuộm răng theo nhiều lối cầu kỳ với những phương pháp gia truyền khác nhau.

Người con gái Thái chỉ sau khi lấy chồng mới nhuộm răng và ăn trầu, cách nhuộm răng của họ cũng khác với người Kinh.

Với bà thầy Thại, một người nhuộm răng nổi tiếng ở Huế, mỗi đợt nhuộm là 15 người ăn ở luôn tại nhà trong thời gian nửa tháng. Buổi chiều "bà thầy" cho người đang nhuộm leo lên một đồi nhỏ trong làng, há miệng to để gió thổi vào cho thuốc nhuộm mau khô. Thuốc nhuộm răng của bà thầy Thại nổi tiếng vang khắp cả một vùng Trung kỳ, đại lý thuốc của bà có ở chợ Đông Ba, Quảng Trị, Đông Hà vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi...[cần dẫn nguồn]

Thành phần thuốc nhuộm

Thuốc nhuộm răng gồm các thành phần căn bản như sau:

  • Bột nhựa cánh kiến
  • Nước cốt chanh
  • Phèn đen
  • Nhựa của gáo dừa.

Cách nhuộm

  • Người Si La có tục nhuộm răng phổ biến nhưng nam giới nhuộm răng đỏ còn nữ nhuộm đen. [1] Lưu trữ 2004-12-23 tại Wayback Machine
  • Người Thái nhuộm răng như sau: Đầu tiên, để làm sạch răng họ phải chà xát nhiều lần bằng một miếng cau khô, sau đó dùng lưỡi dao hơ cho vừa nóng, rắc bột cánh kiến lên để bột nhựa cánh kiến nóng chảy ra. Chờ bột nhựa cánh kiến vừa nguội mới lấy miết vào răng. Trong vòng 7 dến 10 ngày sau không được dùng thức ăn uống nóng, không nhai đồ ăn cứng, khi răng trở nên màu ngà họ sẽ nhuộm đen bằng nhựa cây mét non.
  • Phần viết về người Dao có đoạn: "Người Dao nhuộm răng đơn giản bằng nước vắt của lá cây mơ tam thể hoặc lá cây mơ lông. Cách này có độ bền kém cho nên thường phải nhuộm lại luôn." [2] Lưu trữ 2005-02-23 tại Wayback Machine
  • Đối với người Kinh, cách nhuộm răng được miêu tả như sau:

Khởi đầu, miệng và răng phải được làm vệ sinh thật sạch cho đến khi lấy tay sờ vào thân răng phải trơn láng mới được.

Trong ba ngày đầu phải đánh răng, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn với muối bột. Một ngày trước khi nhuộm phải nhai ngậm chanh hoặc hạnh, súc miệng bằng rượu trắng pha nước chanh để lớp men răng "mềm" đi, axit của chanh sẽ bào mòn tạo thành những vệt lõm sần sùi trên men răng. Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm vì răng, môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, răng lung lay như muốn rụng. Thuốc nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến được điều chế trước đó 7–10 ngày theo đúng công thức với tỷ lệ bột nhựa cánh kiến và nước cốt chanh tùy theo mỗi người, chất sền sệt đó được trét lên một mảnh vải thô trắng hay lụa. Người ta trét lên lá dừa, cau hay lá ngái sau đó mới áp lên hai hàm răng. Việc áp thuốc nhuộm răng được thực hiện vào sau buổi ăn chiều, đến giữa đêm sẽ được thay bằng một miếng áp mới.

Đến sáng sẽ gỡ ra lớp nhựa sơn mới phủ lên đêm trước. Sau đó phải súc miệng bằng nước mắm, có nơi dùng nước dưa chua, để thải hết chất thuốc còn sót lại. Người nhuộm răng phải ngậm miệng suốt đêm, tránh để miếng thuốc nhuộm bong ra, phải làm như vậy mỗi đêm 2 lần trong 7 đêm. Khoảng thời gian đó người nhuộm răng chỉ được nuốt chửng thức ăn chứ không được nhai. Khi thấy răng có màu đỏ già [màu của cánh kiến] thì việc nhuộm răng sẽ bước qua giai đoạn 2 là giai đoạn nhuộm đen răng bằng cách phết dung dịch bôi đen lên răng. Thuốc bôi đen là hỗn hợp phèn đen trộn với nhựa cánh kiến, dung dịch này được phết trong 2 ngày.

Phải súc miệng bằng một thứ thuốc gọi là thuốc xỉa nước. Giai đoạn cuối cùng là cố định bằng nhựa của gáo dừa được đốt hay nấu chảy, chất nhựa này tạo thành một lớp men trên thân răng gọi là "giết răng". Khi hoàn tất giai đoạn này người nhuộm răng sẽ có một hàm răng đen bóng như hột mãng cầu.

Được bảo vệ cẩn thận răng nhuộm có thể giữ màu đen bóng 20, 30 năm. Muốn cho hàm răng lúc nào cũng đen nhánh thì độ một năm lại nhuộm bồi thêm một lớp. Răng không được chăm sóc sẽ bị phai màu, loang lổ gọi là "răng cải mả", trông không đẹp.

Tục ngữ Việt có câu "cái răng cái tóc là góc con người" nên hàm răng đen ngày trước là tối quan trọng, không kém gì mái tóc. Tục nhuộm răng cũng đánh dấu ngưỡng cửa bước vào cuộc đời trưởng thành của mỗi người. Người nào không nhuộm răng thì dư luận cho là người không đứng đắn. Trong một xã hội cổ truyền vốn coi trọng sự suy xét của cộng đồng nói chung thì câu "răng trắng như răng chó" là có ý chê trách. Răng đen cũng là một đặc điểm khác biệt giữa người Việt và người Tàu nên còn có câu: "răng trắng như răng Ngô".

Tục nhuộm răng đối với người Việt thường gắn liền với tục ăn trầu tuy hai tập tục này là hai khía cạnh khác nhau về xã giao và đoàn kết.

Truyền thuyết

Theo các truyện cổ tích Việt Nam thì từ hàng nghìn năm trước người Việt đã có tục nhuộm răng. Theo truyền thuyết Việt Nam tục này đi cùng với tục xăm mình và ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang đã trả lời vua nhà Chu [Trung Quốc] về tục ăn trầu rằng: "Người Việt có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen..."[2]. Nhưng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chỉ ghi lại lời vua Hùng về tục xăm mình, còn tục nhuộm răng không thấy.

Theo Lịch sử Việt Nam [tập 1, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, 1971, trang 48] có đoạn: "Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tóc hoặc cắt tóc ngắn. Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu".

Trong bài hịch của vua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc nhà Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt.

Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn...

Thợ nhuộm răng

Tục nhuộm răng có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi lên mười ba, mười bốn tuổi, mọi người đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài từ một đến hai tuần và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết được công thức pha chế.

Ở nông thôn có người nhuộm răng gọi là "thầy", ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề. Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa chợ, các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu cũng có một đến hai "bà thầy" nhuộm răng.

Ở kinh đô Huế có bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa... Muốn nhuộm răng phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng mới được nhuộm.

Văn chương

Trong văn chương thì tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được.

Răng đen ai nhuộm cho mình Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say? [Ca dao]

Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái. Trong bài "Mười thương" của ca dao Việt Nam có đoạn:

Một thương tóc bỏ đuôi gà, Hai thương ăn nói mặn mà có duyên, Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua

Và để hấp dẫn, để sửa soạn, để trang điểm người con gái bao giờ cũng rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình:

Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công trang điểm má hồng răng đen. [Ca dao]

Và:

Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, miệng người răng đen.[Ca dao]

Còn trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm thì:

...Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu toả nắng...

Trong thành ngữ Việt Nam cũng có nhắc đến phong tục này

Con gà tốt mã về lông, Răng đen về thuốc, rượu nồng về men

Tục nhuộm răng là một nét văn hóa để phân biệt với các tộc người khác. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng.

Khoảng vào năm 1862, khi nền văn minh Tây phương xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, và nhất là đầu những năm của thế kỷ 20, nhiều phụ nữ đã để răng trắng hay cạo hàm răng đen được nhuộm từ thuở mới thay răng để trở thành người phụ nữ mới nhằm tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, phong trào nữ quyền, giải phóng,...; những phong trào này phát triển rầm rộ trong thời đại canh tân. Thuở ấy trong xã hội có hai phái kình chống nhau kịch liệt, một nhóm cho rằng để răng trắng, hớt tóc là bè lũ theo Tây, làm me Tây...; còn nhóm kia thì cho rằng tóc củ hành, răng đen, áo the quần vải là hủ lậu, kém văn minh... Thời đó, người ta chỉ đánh giá bề ngoài mà không chú trọng nhân cách, tư tưởng ở bên trong. Đấy là giai đoạn đánh dấu sự suy tàn của tục nhuộm răng ở Việt Nam.

Răng đã nhuộm đen sau đem cạo trắng thường không trắng hẳn mà có màu xám/đen lờ lợ không đều. Tiếng Việt cũng dùng từ ngữ "răng cải mả" giống như loại răng đen mà để phai để gọi hàm răng không mấy đẹp này.

  • Ăn trầu

  1. ^ Murasaki Shikibu, The Tale of Genji, translated by Royall Tyler. Chapter 6, page 130. Penguin Classics. Reprint 2003. First published 2001. ISBN 0-14-243714-X - see also note 57 by Royall Tyler
  2. ^ 嶺南摭怪 卷一 - 白稚傳. “Lĩnh Nam Chính Quái - Bạch Trĩ truyện”.

  • Bách khoa toàn thư văn hóa Việt
  • Ảnh chụp một người già đã nhuộm răng thuở trước ở Bắc Ninh
  • Tục nhuộm răng của người Việt xưa[liên kết hỏng]
  • Tục nhuộm răng của người Việt Nam - [Vietsciences-Hồ Đắc Duy]
  • Răng đen hột huyền

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhuộm_răng&oldid=68000546”

Video liên quan

Chủ Đề