Vua nhà Thanh đã công nhận Quang Trung là gì
Tác giả: Hồ Bạch Thảo Việc vua Quang Trung nước ta chuẩn bị đánh nhà Thanh không còn nằm trong huyền thoại; chính vua Gia Khánh đã có những bằng cớ như: giấy tờ, ấn triện do vua Quang Trung cấp cho bọn giặc Tàu Ô. Ngoài ra cung từ của các tù nhân đều khai rằng lực lượng này có đến 12 viên Tổng binh và hơn 100 hiệu thuyền:
Sau khi viên Tổng binh Tàu Ô Trần Thiêm Bảo đầu thú, nạp cả sắc do vua Quang Trung ban cho. Đọc sắc phong này, vua Gia Khánh phẫn nộ, dùng những lời nặng nề miệt thị vua Quang Trung:
Bốn chữ “Dạ Lang tự đại ” Gia Khánh gán cho nước ta, ý khinh bỉ một nước nhỏ bé dám ôm mộng xâm lăng Thiên triều! Người mình cũng có những kẻ ngầm đồng ý theo lời khinh thị đó; họ mang sẵn mặc cảm tự ty, cho rằng bất luận cái gì người Tàu cũng hơn ta: về thuốc không cần để ý đến môn thuốc gì, trị bệnh nào, hễ thuốc Bắc thì hay hơn thuốc Nam; về thơ, không thèm để ý đến tác giả, tác phẩm nào, hễ thơ Tàu tất hay hơn thơ Việt; theo họ nước ta đánh Tàu chẳng khác gì trứng chọi với đá ! Khác với thiểu số nêu trên, những người tự tin, nhẫn nại thu thập sự kiện, cố gắng phân tích so sánh một cách có khoa học, để tìm ra kết luận đúng đắn. Nhưng chúng ta đều biết vua Quang Trung mất sớm, không có dịp thi thố tài năng; vậy dựa vào cơ sở nào nghiên cứu, để tìm kết luận cho một trường hợp chưa xảy ra? Đọc sử Trung Quốc, được biết cuộc nổi dậy của Thái bình Thiên quốc tuy xa cách thời vua Quang Trung hàng nửa thế kỷ, nhưng cùng chia sẻ những nét đặc trưng về bối cảnh lịch sử. Thái bình Thiên quốc đưa ra những khẩu hiệu như Thiên yếm Mãn Thanh [trời ghét Mãn Thanh] Quan bức dân biến [quan áp bức bóc lột, dân nổi dậy]; thì cũng là trọng bệnh của nhà Thanh trong giai đoạn vua Quang Trung chuẩn bị sang đánh. Bởi vậy chúng tôi làm công việc so sánh hai cuộc chiến đấu, để mong tìm một kết luận về dự định của vua Quang Trung. Trước hết xin nêu lên một vài nét sơ lược về Thái bình Thiên quốc (1851-1864). Người cầm đầu Thái bình Thiên quốc, Hồng Tú Toàn, là một thầy đồ theo đạo Thiên chúa; dựa vào một vài kiến thức về đạo này, lập Thượng đế Giáo. Nhân mất mùa đói kém, hô hào dân nổi dậy tại Quảng Tây. Cuộc nổi dậy được nông dân ủng hộ, trong vòng vài năm chiếm được gần 16 tỉnh, 600 thị trấn. Cuối cùng bị đạo quân do nhà Nho Tăng Quốc Phiên chỉ huy đánh bại, Hồng Tú Toàn phải tự tử vào năm 1864. Thực hiện công việc so sánh giữa Thái bình Thiên quốc và dự định đánh nhà Thanh của vua Quang Trung, chúng tôi xin lần lượt nêu lên 3 yếu tố Thời, Thế, Cơ để dễ bề nghiên cứu: A. Thời Tuy xa cách nhau trên 50 năm, Thái bình Thiên quốc và dự định đánh nhà Thanh của vua Quang Trung chia sẽ chung một chữ “thời”. Cái khẩu hiệu Thiên yếm Mãn Thanh được Thái bình Thiên quốc dùng để hô hào; nếu bảo lòng dân là ý trời, thì người dân Hoa đều mang nặng lòng căm ghét suốt cả 10 triều đại nhà Thanh, không phải đợi đến đời Hàm Phong, lúc Thái bình Thiên quốc nổi dậy mới xẩy ra. Khẩu hiệu thứ hai Thái bình Thiên quốc nêu lên là Quan bức dân biến [quan lại áp bức, dân nổi dậy]; xét trong thời vua Quang Trung, sự áp bức bóc lột của quan lại nhà Thanh đã xẩy ra ngay trước mắt phái đoàn Quang Trung giả, nhân dịp phái đoàn này sang dự lễ mừng thọ vua Thanh. Lợi dụng việc vua Càn Long vui mừng được phái đoàn nước ta sang chúc thọ để rửa mối nhục thua trận, tập đoàn tham nhũng tại nước này thừa dịp bốc hốt, bằng cách đưa ra số tiền dự chi để tiếp đón phái đoàn ta một ngày lên đến 4.000 lạng bạc! Chính vua Càn Long, qua văn bản dưới đây đã nêu lên những chi tiết sau đây:
Người cầm đầu hệ thống tham nhũng thời bấy giờ là Hòa Khôn, một cận thần được vua Càn Long đặc biệt che chở và sủng ái. Y là kẻ tham nhũng giàu nhất đời Thanh, có tài sản 800 triệu (800.000.000) lượng bạc. Nhân lễ khánh thọ, vua Càn Long cùng phái đoàn vua Quang Trung giả ngự thuyền rồng du ngoạn hồ Côn Minh, chính Hòa Khôn đứng bên cạnh đích thân giới thiệu các thắng cảnh như núi Vạn Thọ, núi Ngọc Tuyền v.v..:
B.Thế Hiểu đơn giản thế tức thế lực, sức mạnh. Thế có thể có sẵn; hoặc tự tạo lấy, tạm gọi là tạo thế. Xét về thế sẵn có, lực lượng vua Quang Trung hơn hẳn phe Hồng Tú Toàn, lãnh tụ Thái bình Thiên quốc Theo tài liệu nêu trên, trước khi cử sự vua Quang Trung đã chiêu tập được một lực lượng Tàu Ô dưới quyền 12 Tổng binh, cùng 100 hiệu thuyền. Ngoài ra nhà vua còn có một đạo binh bách chiến bách thắng, chính quân Thanh đã từng nếm mùi thất trận bởi đạo binh này. Bàn về tạo thế thì không đơn giản, xin phân tích những yếu tố dưới đây: Tôn giáo Chiêu bài tôn giáo được sử dụng trong các cuộc nổi dậy không mới mẽ gì trong lịch sử Trung Quốc; thời Hán mạt có Hoàng Cân; thời Nguyên mạt có Minh giáo, Bạch Liên giáo; đời Thanh trước Thượng Đế giáo của Hồng Tú Toàn, đã có Bát Quái giáo nổi dậy. Tôn giáo được lợi dụng như một công cụ tập trung thành phần bất mãn, những nông dân đói khổ vì mất mùa, nhưng không phải là yếu tố quyết định để đạt được mục đich dành chính quyền. Với thuyết Thiên phụ, Địa Mẫu của tôn giáo này thì cũng chẳng khác mấy quan niệm Thiên phú, địa tái [trời che, đất chở] trong niềm tin dân gian. Duy việc Thái bình Thiên quốc cấm thờ cúng ông bà, cấm thờ Khổng, Lão, Phật, chối bỏ nền văn hóa truyền thống Trung Quốc; nên đã bị những thành phần trí thức như Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương lãnh đạo dân chúng chống lại. Coi người trong thiên hạ như một nhà Trong sắc phong của vua Quang Trung cho các Tổng binh Tàu Ô, có 11 chữ vua Gia Khánh nhà Thanh giận nhất, và đã ghi lại nguyên văn trong đạo dụ nêu trên “coi thiên hạ như một nhà, bốn biển như một người”. Qua mấy chữ vắn tắt này, khiến ta tự hỏi “một nhà ” tức nhà nào? Xét về lịch sử thấy được rằng nước Việt Nam ta và các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây có chung một ngôi nhà Nam Việt, tức lãnh thổ nước ta thời nhà Triệu. Điều này không phải chỉ riêng ta công nhận, vua Gia Khánh khi đáp lại lời xin sắc phong quốc hiệu của vua Gia Long nước ta, đã từng nói như vậy:
Vậy việc mang quân giúp cho vùng đất cũ của Nam Việt đánh đuổi được bọn ngoại xâm Mãn Thanh, là bổn phận của anh em trong nhà. Sách lược tạo thế của vua Quang Trung đã biến từkhách sang chủ! Đây là một chính sách mới, thêm bạn bớt thù, khác với việc phạt Tống của Lý Thường Kiệt trước kia. Lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cùng tập trung tư liệu sản xuất Không bàn đến vấn đề đạo đức, việc lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, trong bước đầu đã làm phấn khởi nông dân theo phe nổi dậy. Cả nhà Tây Sơn và Thái bình Thiên quốc đều làm việc đó. Về nhà Tây Sơn, Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Giặc lúc đầu nổi lên thì lấy của nhà giàu chu cấp cho người nghèo, dối trá thi ân nhỏ để mua chuộc lòng người” [13] Nhờ sự ủng hộ của nông dân, trong bước đầu lực lượng Tây Sơn phát triển mau chóng. Nhưng cái hay của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là biết dừng lại đúng lúc, nên sau đó mọi việc đều ổn định, đúng như sách Đại Học dạy “知 止 而 后 有 定 Tri chỉ nhi hậu hữu định.” Riêng Thái bình Thiên quốc cũng nhờ việc lấy của nhà giàu cho người nghèo mà được sự ủng hộ nhiệt liệt của nông dân trong bước đầu, nên sau hai năm nổi dậy, từ một làng nhỏ tại tỉnh Quảng Tây làm cuộc trường chinh lên phía bắc, chiếm được Nam Kinh. Tuy nhiên Thái bình Thiên quốc không biết dừng, chủ trương thi hành triệt để theo con đường tập trung tư liệu sản xuất: Có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc, có tiền cùng tiêu, không có điều gì là không công bằng. [14] Lịch sử từng chứng kiến việc Mao Trạch Đông thi hành “Bước nhảy vọt lớn” trong năm 1958-1959 thất bại như thế nào, thì chủ trương tập trung tư liệu sản xuất của Thái bình Thiên quốc cũng thất bại tương tự. Sau một thời gian ngắn thử thách, nông dân chán nản, phần đông gia nhập vào tổ chức dân binh, được gọi là “Đoàn luyện“ của Tăng Quốc Phiên để chống lại Thái bình Thiên quốc. Lưu khấu Một trong những thủ đoạn của Thái bình Thiên quốc là “lưu khấu” tức vĩnh viễn làm giặc lưu động. Theo lời của Trung vương Lý Tú Thành, một trong những vị vương của Thái bình Thiên quốc cung khai như sau: “Những gia đình thờ “Thượng đế”, nhà cửa phòng ốc được hủy đốt, đói lạnh không có ăn, nên đành đi theo. Người nhà quê, đi xa không biết đường, đi được khoảng trên 100 dặm, không quay trở về được nữa, nên cuối cùng phải theo quân.” [15] Thông thường những năm đói kém mất mùa, nông dân có thể nổi dậy; nhưng đến mùa thu hoạch no đủ, thi họ lại trở về làm ăn như cũ. Đằng này, hô hào đốt nhà cửa, bắt dân theo vĩnh viễn, làm một cuộc trường chinh không có ngày về, thủ đoạn của Thái bình Thiên quốc muốn duy trì một đạo quân trung thành thường trực. Tuy nhiên quân ắt phải có lương, một khi không dành được của kẻ địch, thi họ quay lại cướp của dân, đó là con dao hai lưỡi! Sử dụng trí thức Lúc Thái bình Thiên quốc nổi lên như một ngọn lửa bừng, quan quân nhà Thanh tuy đông nhưng đành bất lực, lực lượng này chiếm Nam Kinh, vượt sông Trường Giang v.v… Tuy nhiên chính sách của Thái bình Thiên quốc cấm thờ cúng tổ tiên, cấm các tư tưởng Nho, Lão, Phật… thực sự chối bỏ nên văn hóa cổ truyền đông phương, nên bị những người đọc sách phản đối. Các nhà Nho đương thời như Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương đã tập hợp dân chúng với tổ chức “đoàn luyện” để chống lại một cách hiệu quả. Riêng vua Quang Trung tuy xuất thân từ áo vải, nhưng biết dùng những trí thức như La Sơn Phu Tử, Ngô Thời Nhiệm v.v… Điều này thấy rõ nhãn quan chính trị của vua Quang Trung cao hơn Hông Tú Toàn một bậc. C. Cơ Lịch sử ghi nhận Hồng Tú Toàn có cơ hội, chiếm được 16 tỉnh của Trung Quốc, nhưng vì sử dụng tập thể hóa tư liệu sản xuất, cùng chối bỏ nền văn hóa truyền thống, nên tự rước lấy thất bại. Sự thất bại này, tương tự như thất bại của Tần Thủy Hoàng được vạch ra trong bài phú nổi danh A Phòng cung phú của Đỗ Mục “diệt nhà Tần không phải là công của thiên hạ, mà chính Tần tự diệt.”[16] Riêng vua Quang Trung, mất trước khi khởi sự, hoàn toàn không có cơ hội! Tuy nhiên qua sự phân tích so sánh tại các mục Thời, Thế nêu trên; thấy có nhiều yếu tố hơn hẳn Hồng Tú Toàn. Với tài sức như vậy, há lại không đủ khả năng để khôi phục được phần đất cũ của Nam Việt ư! Tuy nhiên “Thành bại là cơ”; người đời sau đành phải an ủi bằng hai câu thơ của Nguyễn Du trong Văn tế thập loại chúng sinh:
Nguồn: © 2007 talawas [1]Hồ Bạch Thảo, Cao Tông Thực lục q. hạ, văn bản số 200, tr. 237. [2]Hoàng khảo: Vua cha, chỉ vua Càn Long. [3]Dạ Lang tự đại: Đời nhà Hán có nước Dạ Lang nhỏ bé [vùng Quí Châu hiện nay] làm Vương một châu, không biết nhà Hán to lớn; Vương nước đó hỏi Sứ giả nhà Hán rằng “Hán và nước ta ai lớn hơn”. Do câu nói đó, người đời gọi kẻ ngông cuồng không lượng sức là Dạ Lang tự đại. (Hán Thư, Tây Nam Di truyện) [4]Tức Đồng Nai; chỉ quân Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đóng tại Đồng Nai. [5]Hồ Bạch Thảo, Cao Tông Thực lục q. hạ, văn bản số 204, tr. 245. [6]Thiện phòng; phòng phụ trách nấu cho vua ăn [7]Lưỡng Hồ: Hồ Bắc, Hồ Nam [8]Cao Tông Thực lục q. 1356, tr. 173-174 [9]Thăng bình ngọc phiệt: Bè ngọc, cứu vớt người trầm luân đến cảnh thăng bình [10]Trạo ca: Điệu hát chèo thuyền [11]Thanh Thông Giám, q. 14, tr. 1601-1602 [12]Hồ Bạch Thảo, Cao Tông Thực lục tập hạ, văn bản số 206, tr. 251 [13]Đại Nam chính biên liệt truyện, Ngụy Tây; Tạ Quang Phát dịch, tr. 11 [14]有 田 同 耕, 有 飯 同 食, 有 衣 同 穿, 有 錢 同 使, 無 處 不 均 勻 Hữu điền đồng canh, hữu phạn đồng thực, hữu y đồng xuyên, hữu tiền đồng sử, vô xứ bất quân quân. Tiền Mục, Quốc Sử Đại cương, tr. 876. [15]Tiền Mục, Quốc sử đại cương, tr. 874 [16]族 秦 者, 秦 也, 非 天 下 也 Tộc Tần giả, Tần dã; phi thiên hạ dã. Cổ Văn Quan Chỉ, q. 8, tr. 309. |