10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

Cách tính tiền phạt chậm nộp thuế TNDN, GTGT, TNCN, thuế môn bài... mới nhất theo quy định về Mức phạt chậm nộp tiền thuế; Hướng dẫn cách tính số ngày chậm nộp tiền thuế theo Luật quản lý thuế mới nhất.

1. Các trường hợp bị phạt chậm nộp tiền thuế:

Theo khoản 1 Điều 59 Luật số 38/2019/QH14 Luật quản lý thuế:

a) Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định ấn định thuế hoặc quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế;

Xem thêm: Lịch nộp các loại tờ khai thuế.
 

b) Người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm tăng số tiền thuế phải nộp hoặc cơ quan quản lý thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra phát hiện khai thiếu số tiền thuế phải nộp thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền thuế phải nộp tăng thêm kể từ ngày kế tiếp ngày cuối cùng thời hạn nộp thuế của kỳ tính thuế có sai, sót hoặc kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế của tờ khai hải quan ban đầu;

c) Người nộp thuế

khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả hoặc cơ quan quản lý thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra phát hiện số tiền thuế được hoàn nhỏ hơn số tiền thuế đã hoàn thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền thuế đã hoàn trả phải thu hồi kể từ ngày nhận được tiền hoàn trả từ ngân sách nhà nước;

d) Trường hợp được nộp dần tiền thuế nợ quy định tại khoản 5 Điều 124 của Luật này;

đ) Trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế

do hết thời hiệu xử phạt nhưng bị truy thu số tiền thuế thiếu quy định tại khoản 3 Điều 137 của Luật này;

e) Trường hợp không bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế đối với hành vi quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 142 của Luật này;

g) Cơ quan, tổ chức được cơ quan quản lý thuế ủy nhiệm thu thuế chậm chuyển tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế vào ngân sách nhà nước thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền chậm chuyển theo quy định.


------------------------------------------------------------------------------

2. Các trường hợp không tính tiền chậm nộp tiền thuế:

Theo khoản 5 Điều 59 Luật số 38/2019/QH14 Luật quản lý thuế: 

a) Người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán thì không phải nộp tiền chậm nộp.
    Số tiền nợ thuế không tính chậm nộp là tổng số tiền thuế còn nợ ngân sách nhà nước của người nộp thuế nhưng không vượt quá số tiền ngân sách nhà nước chưa thanh toán;

  b) Các trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 55 của Luật này thì không tính tiền chậm nộp trong thời gian chờ kết quả phân tích, giám định; trong thời gian chưa có giá chính thức; trong thời gian chưa xác định được khoản thực thanh toán, các khoản điều chỉnh cộng vào trị giá hải quan.

Theo khoản 8 Điều 59 Luật số 38/2019/QH14 Luật quản lý thuế: 

- Người nộp thuế phải nộp tiền chậm nộp theo quy định tại khoản 1 Điều nàyđược miễn tiền chậm nộp trong trường hợp bất khả kháng quy định tại khoản 27 Điều 3 của Luật này.

"27. Trường hợp bất khả kháng bao gồm:
a) Người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ;
b) Các trường hợp bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ."

------------------------------------------------------------------------------

3. Mức phạt chậm nộp tiền thuế và cách tính tiền phạt chậm nộp thuế:

Theo khoản 2 Điều 59 Luật số 38/2019/QH14 Luật quản lý thuế:

1. Mức tính tiền chậm nộp và thời gian tính tiền chậm nộp được quy định như sau:

a) Mức tính tiền chậm nộp bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp;

b) Thời gian tính tiền chậm nộp

được tính liên tục kể từ ngày tiếp theo ngày phát sinh tiền chậm nộp quy định tại khoản 1 Điều này đến ngày liền kề trước ngày số tiền nợ thuế, tiền thu hồi hoàn thuế, tiền thuế tăng thêm, tiền thuế ấn định, tiền thuế chậm chuyển đã nộp vào ngân sách nhà nước.

Công thức tính tiền chậm nộp tiền thuế như sau:


 

Số tiền phạt chậm nộp tiền thuế  =   Số tiền thuế chậm nộp  X   0.03%  X  Số ngày chậm nộp

Ví dụ: Ngày 30/4/2021 Công ty Kế toán Thiên Ưng nộp Tờ khai thuế GTGT quý 1/2021, theo số liệu trên Tờ khai đó thì Cty phải nộp 100tr tiền thuế GTGT quý 1. Nhưng cty đã quên không nộp số tiền thuế GTGT đó mà chỉ nộp Tờ khai.
- Theo quy định thì hạn nộp Tiền thuế GTGT quý 1/2021
chậm nhất là ngày 30/4/2021 -> Nhưng đến ngày 15/5/2021 Công ty mới nộp tiền thuế GTGT quý 1.

-> Số ngày chậm nộp Tiền thuế được tính từ ngày 1/5/2020 (từ ngày tiếp theo ngày phát sinh) đến ngày 14/5/2020 (đến ngày liền kề trước ngày nộp tiền thuế): là

14 ngày.

Cách tính tiền phạt chậm nộp tiền thuế là:
    =
100 tr x 0,03% x 14 ngày = 420.000

Lưu ý:
- Ví dụ trên là trường hợp Cty nộp Tờ khai thuế GTGT đúng hạn.
-> Nếu trường hợp Công ty nộp Tờ khai không đúng hạn thì còn bị phạt thêm hành vi Chậm nộp Tờ khai thuế nữa nhé.
-> Nghĩa là sẽ Phạt chậm nộp Tờ khai và Phạt chậm nộp Tiền thuế.

Chi tiết xem thêm: Mức phạt chậm nộp tờ khai thuế.

 
- Người nộp thuế
tự xác định số tiền chậm nộp theo quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định.

- Trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, người nộp thuế chưa nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt thì cơ quan quản lý thuế thông báo cho người nộp thuế biết số tiền thuế, tiền phạt còn nợ và số ngày chậm nộp.


Xem thêm: Cách hạch toán tiền phạt chậm nộp thuế.


---------------------------------------------------------------------------------- 

Thời điểm trước ngày 1/7/2020 quy định về Mức phạt chậm nộp tiền thuế như sau:

Mức phạt chậm nộp tiền thuế mới nhất từ ngày 1/7/2016 trở đi:

1. Đối với khoản tiền thuế nợ phát sinh từ ngày 01/7/2016 thì tiền chậm nộp được tính theo mức 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.

2. Đối với khoản tiền thuế nợ phát sinh trước ngày 01/7/2016 nhưng sau ngày 01/7/2016 vẫn chưa nộp thì tính như sau:

- Trước ngày 01/01/2015 tính phạt chậm nộp, tiền chậm nộp theo quy định tại Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13, (số ngày chậm nộp < 90 ngày là 0.05%, từ ngày 91 trở đi là 0.07%/ngày)

- Từ ngày 01/01/2015 tính tiền chậm nộp theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13, (0,05%/ngày.)

- Từ ngày 01/7/2016 tính tiền chậm nộp theo mức 0,03%/ngày.

KẾT LUẬN:

a. Trước ngày 1/1/2015 mức phạt chậm nộp tiền thuế như sau:

- Nếu số ngày chậm nộp < 90 ngày:

Số tiền phạt  =   Số tiền thuế chậm nộp  X   0.05%  X  Số ngày chậm nộp

- Nếu số ngày chậm nộp > 90 ngày:

Số tiền phạt  =   Số tiền thuế chậm nộp  X   0.07%  X  Tổng số ngày chậm nộp - 90

b. Từ ngày 1/1/2015 mức phạt chậm nộp tiền thuế như sau:

Số tiền phạt  =   Số tiền thuế chậm nộp  X   0.05%  X  Số ngày chậm nộp

c. Từ ngày 1/7/2016 mức phạt chậm nộp tiền thuế như sau:

Số tiền phạt  =   Số tiền thuế chậm nộp  X   0.03%  X  Số ngày chậm nộp

Ví dụ: Công ty A nợ 100 triệu đồng tiền thuế GTGT thuộc tờ khai thuế GTGT tháng 8/2014 (tờ khai đã nộp đúng hạn cho cơ quan thuế), thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày 22/9/2014 (do ngày 20/9/2014 và ngày 21/9/2014 là ngày nghỉ). Ngày 20/8/2016, người nộp thuế nộp số tiền thuế này vào ngân sách nhà nước, số ngày chậm nộp được tính từ ngày 23/9/2014 đến ngày 20/8/2016, số tiền chậm nộp phải nộp là 34,08 triệu đồng.

Cách tính tiền phạt chậm nộp tiền thuế cụ thể như sau:

- Trước ngày 01/01/2015 tiền chậm nộp được tính như sau:

+ Từ ngày 23/9/2014 đến ngày 21/12/2014, số ngày chậm nộp là 90 ngày:

-> Số tiền phạt chậm nộp = 100 triệu đồng x 0,05% x 90 ngày = 4,5 triệu đồng.

+ Từ ngày 22/12/2014 đến ngày 31/12/2014, số ngày chậm nộp là 10 ngày:

-> Số tiền phạt chậm nộp = 100 triệu đồng x 0,07% x 10 ngày = 0,7 triệu đồng.

- Từ ngày 01/01/2015 đến ngày 30/6/2016, số ngày chậm nộp là 547 ngày:

-> Số tiền phạt chậm nộp: 100 triệu đồng x 0,05% x 547 ngày = 27,35 triệu đồng.

- Từ ngày 01/7/2016 đến ngày 20/8/2016, số ngày chậm nộp là 51 ngày:

-> Số tiền phạt chậm nộp = 100 triệu đồng x 0,03% x 51 ngày = 1,53 triệu đồng.

3. Số ngày chậm nộp tiền thuế (bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ theo quy định của pháp luật) được tính từ ngày liền kề sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế, thời hạn nộp thuế ghi trong thông báo hoặc quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan thuế hoặc quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến ngày người nộp thuế nộp số tiền thuế vào ngân sách nhà nước.

Ví dụ: Doanh nghiệp C nợ thuế GTGT 50 triệu đồng, có hạn nộp là ngày 20/8/2013. Ngày 26/8/2013, người nộp thuế nộp số tiền trên vào ngân sách nhà nước. Số ngày chậm nộp là 06 ngày, được tính từ ngày 21/8/2013 đến ngày 26/8/2013.

Ví dụ: Công ty  D được cơ quan thuế quyết định gia hạn nộp thuế đối với khoản thuế GTGT 50 triệu đồng, có hạn nộp là ngày 20/5/2014, thời gian gia hạn từ này 21/5/2014 đến ngày 20/11/2014. Ngày 21/11/2014, người nộp thuế nộp 50 triệu đồng vào ngân sách nhà nước. Số ngày chậm nộp là 01 ngày (ngày 21/11/2014).

Ví dụ: Cơ quan thuế thực hiện thanh tra thuế đối với người nộp thuế E. Ngày 15/4/2014, cơ quan thuế ban hành quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế với số tiền là 500 triệu đồng, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày 14/5/2014. Ngày 30/5/2014, người nộp thuế nộp 500 triệu đồng vào ngân sách nhà nước. Số ngày chậm nộp là 16 ngày, được tính từ ngày 15/5/2014 đến ngày 30/5/2014.

(Theo khoản 3 điều 3 Thông tư 130/2016/TT-BTC ngày 12/8/2016)


Nếu kê khai điều chỉnh bổ sung:

"Về nội dung tương tự, Tổng cục Thuế đã có công văn số 5733/TCT-KK ngày 12/12/2016 hướng dẫn “Trường hợp người nộp thuế

khai bổ sung hồ sơ khai thuế theo quy định của kỳ trước đó làm giảm số thuế phải nộp thì tính tiền chậm nộp từ thời điểm khai bổ sung hồ sơ khai thuế đến thời điểm người nộp thuế nộp tiền vào Ngân sách Nhà nước được xác định theo số thuế phải nộp trên hồ sơ khai thuế bổ sung. Tiền phạt chậm nộp đã tính trước đó (từ thời điểm sau hạn nộp của hồ sơ khai thuế chính thức đến thời điểm người nộp thuế khai hồ sơ khai thuế bổ sung) không thực hiện tính lại trừ trường hợp khai bổ sung quyết toán năm hướng dẫn tại tiết a khoản 5 Điều 10 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.”. Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi nghiên cứu, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện."

(Theo Công văn 5352/TCT-KK ngày 21/11/2017 của Tổng cục thuế)

------------------------------------------------------------------------------------------------------

Chúc các bạn làm tốt công việc kế toán thuế để tránh không phải bị phạt!
 

Các bạn muốn hạn chế các sai phạm khi làm kế toán thuế và học cách lập báo cáo quyết toán thuế cuối năm, thì có thể tham gia: Lớp học thực hành kế toán thuế thực tế chuyên sâu tại Công ty kế toán Thiên Ưng

-------------------------------------------------------------------------------------------------
 

10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

Tóm tắt các bộ sưu tập trước khi hoàn lại tiền theo loại lợi nhuận, FY 2019 [1]

Loại trở lại

Số lượng lợi nhuận

Bộ sưu tập tổng (hàng triệu đô la) (Millions of $)

Thuế thu nhập cá nhân154,094,555 1,942,182
Thuế thu nhập của công ty2.146,904 [2]275,863
Thuế việc làm31,566,173 1,207,554
Thuế tiêu thụ đặc biệt1,073,183 80,757
Thuế quà tặng239,618 1,563
Thuế bất động sản25,742 16,002

Thông tin được chọn từ các khoản trả lại được nộp

Lợi nhuận của công ty (TY 2017) [3]

Số lượng lợi nhuận

Bộ sưu tập tổng (hàng triệu đô la)

Thuế thu nhập cá nhân

Thuế thu nhập của công ty

$1,655,958,437

2.146,904 [2]

Thuế việc làm

Thuế tiêu thụ đặc biệt
 

4,725,684
Thuế quà tặng

Thuế tiêu thụ đặc biệt
 

4,010,200
Thuế quà tặng

Thuế bất động sản

Thông tin được chọn từ các khoản trả lại được nộp

Lợi nhuận của công ty (TY 2017) [3]

6.325.114 & nbsp;

Thu nhập ròng (ít thâm hụt) số tiền (hàng ngàn $)
 

Tổng số thuế thu nhập sau số tiền tín dụng (hàng ngàn đô la)

$ 264,859,782

Tổng công ty S (TY 2017) [3]

Số lượng lợi nhuận & nbsp;

Lợi nhuận hợp tác (TY 2018) [3]

Lợi nhuận cá nhân

Top 1 phần trăm thu nhập tổng thu nhập (AGI) hàng đầu (TY 2018) [3]

$ 540,009
 

Break 10 % Agi (TY 2018) [3]

$ 151,935

541,410

Trung bình AGI (TY 2018) [3] & NBSP;

91,560

$ 43,614
 

590

Phần trăm yêu cầu các khoản khấu trừ tiêu chuẩn (TY 2018) [3]

113.5

87,3%

Phần trăm yêu cầu các khoản khấu trừ được ghi thành (TY 2018) [3]

11,4%

Phần trăm E-File (TY 2019) [3]

89,5%

Phần trăm sử dụng người chuẩn bị trả tiền (TY 2018) [3] & NBSP;

26.5

52,9%
 

Số lượng lợi nhuận với AGI $ 1M trở lên (TY 2018) [4]

Tiểu bang với số lượng cao nhất-california (TY 2018)

Nhà nước có số lượng ít nhất- Vermont (TY 2018) & NBSP;

402,561

Số lượng tiền hoàn lại cá nhân (TY 2018) (hàng triệu) [3]
 

Số tiền hoàn lại cá nhân (TY 2018) (tỷ đô la) [3]
$ 331,9

Số tiền hoàn trả cá nhân trung bình (TY 2018)

52,532,719


$ 2,924

Tín dụng thuế thu nhập kiếm được (TY 2018) [3]:
[TY] Tax Year
[1] Source: 2019 IRS Data Book
[2] Excludes S Corporations.
[3] Source—SOI data.
[4] Source—IRS Masterfile System
[5] Organizations tax-exempt under Internal Revenue Code Section 501(c)(3)

Số tiền lãi với tín dụng (hàng triệu)


10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

Những người có thu nhập hàng đầu vẫn là mục tiêu tăng thuế, nhưng hệ thống thuế thu nhập liên bang đã rất tiến bộ.Trong năm 2018, năm mới nhất với dữ liệu có sẵn, 10 phần trăm người có thu nhập hàng đầu kiếm được 48 phần trăm của tất cả thu nhập và trả 71 phần trăm của tất cả các loại thuế thu nhập liên bang.

Cập nhật ngày 9 tháng 2 năm 2021

Nguồn: Dịch vụ doanh thu nội bộ

Bởi Greg Leiserson, nhà kinh tế cao cấp (CEA);và Daniel Yagan, Chuyên gia Kinh tế (OMB)


Tóm tắt: Chúng tôi ước tính mức thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang được trả bởi Mỹ 400 gia đình giàu có nhất, sử dụng một thước đo tương đối toàn diện về thu nhập của họ bao gồm thu nhập từ cổ phiếu chưa bán.Chúng tôi làm như vậy bằng cách sử dụng số liệu thống kê công khai từ Bộ phận Thu nhập IRS, Khảo sát tài chính tiêu dùng và tạp chí Forbes.Trong phân tích chính của chúng tôi, chúng tôi ước tính mức thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang là 8.2 % trong giai đoạn 2010-2018.Chúng tôi cũng trình bày các phân tích độ nhạy mang lại ước tính trong phạm vi 6-12 phần trăm.Các đề xuất của Tổng thống giảm thiểu hai người đóng góp chính cho mức giá ước tính thấp: thuế suất ưu đãi đối với mức tăng vốn và thu nhập cổ tức, và các gia đình giàu có có khả năng tránh phải trả thuế thu nhập cho lợi nhuận vốn thông qua một điều khoản được gọi là cơ sở tăng cường.

Khi một người Mỹ kiếm được một đô la tiền lương, đồng đô la đó sẽ bị đánh thuế ngay lập tức với mức thuế thu nhập thông thường. [1]Nhưng khi họ kiếm được một đô la vì cổ phiếu của họ tăng giá trị, đồng đô la đó bị đánh thuế ở mức ưu tiên thấp, hoặc không bao giờ. [2]Lợi nhuận đầu tư là một nguồn thu nhập chính cho những người giàu có, làm cho việc đối xử ưu đãi này đạt được lợi ích có giá trị cho những người Mỹ giàu có nhất.Tuy nhiên, các ước tính phổ biến nhất về thuế suất không nắm bắt đầy đủ giá trị của lợi ích thuế này vì họ sử dụng thước đo thu nhập không đầy đủ.Phân tích này hỏi: Thuế suất thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất người Mỹ trong những năm gần đây, được xác định bằng cách sử dụng một thước đo thu nhập toàn diện hơn?

Làm thế nào những người giàu có được hưởng thuế thu nhập thấp: Tỷ lệ ưu tiên trên một thước đo không đầy đủ về thu nhập

Các mức độ giàu có phải trả thuế suất thuế thu nhập thấp, năm này qua năm khác, vì hai lý do chính.Đầu tiên, phần lớn thu nhập của họ bị đánh thuế ở mức giá ưu tiên.Cụ thể, thu nhập từ cổ tức và từ doanh số bán cổ phiếu bị đánh thuế ở mức tối đa 20 phần trăm (23,8 phần trăm bao gồm thuế thu nhập đầu tư ròng), thấp hơn nhiều so với tỷ lệ bình thường tối đa 37 phần trăm (40,8 phần trăm) áp dụng cho thu nhập khác.

Thứ hai, những người giàu có có thể chọn khi thu nhập tăng vốn của họ xuất hiện trên tờ khai thuế thu nhập của họ và thậm chí ngăn không cho nó xuất hiện.Nếu một nhà đầu tư giàu có không bao giờ bán cổ phiếu tăng giá trị, thì những lợi nhuận đầu tư đó sẽ bị xóa sổ cho mục đích thuế thu nhập khi những tài sản đó được chuyển cho người thừa kế của họ theo một điều khoản được gọi là cơ sở tăng cường.

Phân tích một thước đo toàn diện hơn về thu nhập

Thuế suất ưu tiên trên thu nhập từ bán hàng cổ phiếu (thu nhập tăng vốn của người Hồi giáo) và từ tính năng cổ tức nổi bật trong mức thuế suất thường được trích dẫn cũng như trong phân tích của chúng tôi.

Một đặc điểm quan trọng trong phân tích của chúng tôi ít phổ biến hơn trong các ước tính hiện tại về thuế suất là chúng tôi bao gồm thu nhập của chúng tôi chưa được tính toán (không thực hiện được) trong biện pháp thu nhập toàn diện hơn của chúng tôi khi chúng tích lũy. [3]& nbsp;

Đo lường thu nhập theo cách toàn diện hơn này quan trọng tương đối ít để ước tính hầu hết các gia đình Thuế suất thuế, vì hầu hết các gia đình có ít tài sản đầu tư. [4]Tuy nhiên, nó rất quan trọng đối với những gia đình giàu có nhất mà những người chưa thực hiện và do đó, lợi nhuận không được tính là một phần lớn thu nhập của họ.Giống như tất cả các hình thức thu nhập khác, thu nhập tăng vốn chưa thực hiện có thể được khai thác để tài trợ cho việc tiêu thụ và có thể cải thiện sức khỏe tài chính.

Một điểm tham chiếu chung để xác định thu nhập trong kinh tế được gọi là thu nhập của Haig-Simons. [5]Thu nhập trước thuế Haig-Simons tương đương với các gia đình Thay đổi của cải, cộng với thuế và tiêu dùng.Chúng tôi xác định biện pháp thu nhập của chúng tôi là các gia đình thay đổi của cải cộng với các loại thuế dễ dàng ước tính.Định nghĩa về thu nhập của chúng tôi bị hạn chế hơn định nghĩa Haig-Simons vì nó loại trừ tiêu thụ và các loại thuế khác, nhưng đó là một cách đơn giản hơn để bao gồm một phần đáng kể về thu nhập vốn và có thể được thực hiện với dữ liệu có sẵn công khai. [6]

Ước tính chính và độ nhạy

Trong phân tích chính của chúng tôi, chúng tôi ước tính rằng 400 gia đình giàu có nhất đã trả mức thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang là 8.2 % trên 1,8 nghìn tỷ đô la thu nhập trong giai đoạn 2010 2015, những năm từ thập kỷ qua mà dữ liệu cần thiết có sẵn.Hai yếu tố góp phần vào mức thuế ước tính thấp này bao gồm thuế suất thấp đối với mức tăng vốn và cổ tức bị đánh thuế, và các gia đình giàu có có khả năng tránh vĩnh viễn thuế đối với lợi nhuận đầu tư được loại trừ khỏi thu nhập chịu thuế.Ngân sách của Tổng thống 2022 đề xuất tăng lãi vốn và thuế suất cổ tức và hầu như kết thúc cơ sở tăng trưởng cho người Mỹ có thu nhập cao nhất, do đó đảm bảo các khoản lãi đầu tư này phải chịu thuế thu nhập.

Thuế suất thuế thực sự có thể khác với ước tính chính của chúng tôi.Đầu tiên, không bao gồm tiêu thụ và một số thuế từ thước đo thu nhập của chúng tôi cho thấy ước tính 8.2 % thực sự cao hơn mức thuế được đo so với thước đo thu nhập thực sự toàn diện.Thứ hai, dữ liệu và phương pháp mà chúng ta dựa vào là không hoàn hảo.Các lựa chọn ước tính khác nhau minh họa độ nhạy ước tính.Ví dụ, thay đổi các giả định phân tích dựa trên một trong những lựa chọn phương pháp chính của chúng tôi (được thảo luận chi tiết hơn trong Phụ lục kỹ thuật dưới đây) khiến ước tính thay đổi từ 6 đến 12 phần trăm.

Tất nhiên, mức thuế chúng tôi ước tính là nhạy cảm với những thay đổi trong chính sách.Thuế suất lãi vốn hàng đầu là 15 phần trăm từ tháng 5 năm 2003 đến 2012 và là 20 phần trăm (23,8 % bao gồm thuế thu nhập đầu tư ròng) kể từ năm 2013. Ngoài ra, thuế thu nhập cá nhân liên bang chỉ là một thuế.Tập trung vào thuế thu nhập cá nhân làm sáng tỏ những hạn chế về cấu trúc của thuế đó và phạm vi cải cách, chẳng hạn như hạn chế khả năng của những người giàu có để tránh phải trả thuế cho lợi nhuận đầu tư của họ thông qua cơ sở tăng cường.Tuy nhiên, thuế suất thay thế cũng có thể được ước tính rằng chiếm các khoản thuế khác, chẳng hạn như thuế biên chế, thuế bất động sản và thuế quà tặng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế được trả cho chính phủ nước ngoài.Hơn nữa, người ta có thể sử dụng các định nghĩa thay thế về thu nhập hoặc áp dụng các phương pháp khác nhau để xử lý các hoạt động được trợ cấp nhất định như từ thiện.Cuối cùng, chúng tôi tập trung vào một khoảng thời gian dài (2010 2015), giúp đảm bảo rằng phân tích của chúng tôi phản ánh thực tế dài hạn của thu nhập tài sản tích cực mặc dù có biến động ngắn hạn.Tuy nhiên, chúng tôi cũng trình bày các ước tính thay thế bằng cách sử dụng các năm bắt đầu và kết thúc khác nhau, cũng như ước tính thay thế cho sự giàu có của Forbes 400 trong năm 2009 với mức trung bình trong giai đoạn 2008.

Ước tính chính của chúng tôi là 8.2 phần trăm thấp hơn nhiều so với ước tính thường được trích dẫn về mức thuế thu nhập cá nhân hàng đầu của liên bang.Ví dụ, Ủy ban hỗn hợp về thuế (2021) ước tính rằng mức thuế thu nhập cá nhân liên bang năm 2021 trên 0,4 phần trăm các gia đình được xếp hạng theo thu nhập (tức là, 715.000 gia đình có thu nhập hơn 1 triệu đô la) sẽ là 26 %.Phân tích của chúng tôi khác nhau bởi (a) phân tích một nhóm các gia đình nhỏ hơn (0,0002 phần trăm hàng đầu) được xếp hạng bởi sự giàu có và (b) bao gồm thu nhập tăng vốn chưa thực hiện trong biện pháp thu nhập.Xem phần cuối của phụ lục kỹ thuật để thảo luận bổ sung về cách phân tích của chúng tôi so sánh với các ước tính thường được trích dẫn.

Phương pháp

Chúng tôi nhấn mạnh rằng mọi ước tính về thuế suất trên người giàu nhất là không chắc chắn và cởi mở để hoàn thiện, do các hạn chế dữ liệu hiện tại.

Chúng tôi chi tiết phương pháp của chúng tôi trong Phụ lục kỹ thuật dưới đây.Tóm lại, phương pháp của chúng tôi như sau: Chúng tôi lấy các khoản thuế thu nhập liên bang của Bộ phận Thu nhập Liên bang IRS (SOI) được trả bởi 400 gia đình có thu nhập và nhân với yếu tố điều chỉnh được xây dựng bằng cách sử dụng khảo sát tài chính tiêu dùng của người tiêu dùng(0,63) để chuyển đổi nó thành ước tính thuế được trả bởi 400 người giàu có.Sau đó, chúng tôi ước tính một thước đo thu nhập toàn diện hơn là sự thay đổi của Forbes 400 giàudữ liệu).Tỷ lệ của hai sản lượng thuế suất ước tính của chúng tôi.

Sự kết luận

Trong phân tích này, chúng tôi đã sử dụng dữ liệu có sẵn công khai để ước tính mức thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất của Mỹ, sử dụng một thước đo tương đối toàn diện về thu nhập của họ bao gồm thu nhập từ cổ phiếu chưa bán.Trong phân tích chính của chúng tôi, chúng tôi ước tính mức thuế suất trung bình là 8.2 % trong giai đoạn 20102018.Chúng tôi cũng trình bày các phân tích độ nhạy mang lại ước tính trong phạm vi 61212.

Tỷ lệ tăng vốn ưu tiên và tăng cường cơ sở, một quy định về luật thuế cho phép người nộp thuế giàu có quét sạch lợi nhuận vốn chưa được thực hiện cho mục đích thuế thu nhập khi họ chuyển tài sản cho người thừa kế của họ đối với mức thuế suất thấp này.Ngân sách của Tổng thống 2022 sẽ tăng lãi suất vốn và hầu như kết thúc cơ sở tăng cường cho người Mỹ có thu nhập cao nhất, do đó đảm bảo mức tăng đầu tư của họ phải chịu thuế thu nhập.

Phụ lục kỹ thuật

Tài liệu phụ lục kỹ thuật này cách chúng tôi kết hợp dữ liệu có sẵn công khai từ bộ phận Thống kê Thu nhập IRS (SOI), Khảo sát tài chính tiêu dùng của Ủy ban Dự trữ Liên bang (SCF) và ước tính của Tạp chí Forbes về 400 người Mỹ giàu có nhất để ước tính thuế suất thuế thu nhập cá nhân liên bangĐược trả bởi 400 gia đình giàu có nhất.Để tham khảo, Forbes ước tính rằng 400 người Mỹ giàu có nhất trong năm 2018 có sự giàu có từ 2,1 tỷ đến 160 tỷ đô la.Ước tính thuế suất của chúng tôi là trọng số đô la: đó là ước tính của tổng số thuế thu nhập cá nhân liên bang được trả bởi các gia đình giàu có nhất, chia cho ước tính thu nhập của các gia đình đó.Chúng tôi tập trung vào giai đoạn 20102018 và các ước tính báo cáo cho các khoảng thời gian thay thế.

Trước tiên chúng tôi mô tả ý tưởng cơ bản của quy trình ước tính và sau đó đi qua các chi tiết.Chúng tôi chia một ước tính về thuế thu nhập cá nhân liên bang được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất bằng một ước tính tương đối toàn diện về thu nhập của họ.Đối với tử số, chúng tôi bắt đầu bằng cách ước tính các khoản thuế mà các gia đình có thu nhập được báo cáo cao nhất trên tờ khai thuế.Sau đó, chúng tôi ước tính thu nhập của các gia đình giàu có cao nhất so với thu nhập của các gia đình có thu nhập cao nhất và sử dụng đó như một yếu tố điều chỉnh để ước tính các khoản thuế được trả bởi các gia đình giàu có nhất.Đối với mẫu số, chúng tôi sử dụng các thay đổi trong sự giàu có của Forbes 400 để ước tính thu nhập của 400 gia đình giàu có nhất.

Nội số: Thuế thu nhập cá nhân liên bang ước tính được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất

Tử số của ước tính thuế suất thuế của chúng tôi tương đương với ước tính năm 2010 20142018 được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất.Chúng tôi xây dựng tử số bằng cách ước tính các khoản thuế 201020182018 được trả bởi các gia đình có thu nhập cao nhất, sau đó nhân với một yếu tố điều chỉnh dựa trên khảo sát về tài chính tiêu dùng (SCF) để tính đến thực tế là các gia đình có thu nhập cao nhất làKhông giống như các gia đình giàu có nhất.

SOI đã công bố các ước tính về các khoản thuế được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất hàng năm từ năm 1992 đến 2014. Trong bước đầu tiên và đơn giản, chúng tôi mở rộng loạt bài này đến năm 2018. Để làm điều này, chúng tôi dựa vào ước tính của tổng thu nhập cá nhân liên bangThuế được trả cho top 0,001 phần trăm, có sẵn từ SOI hàng năm từ năm 2001 đến 2018. Trong các năm 2001 đến 2014, khi cả hai ước tính có sẵn, tỷ lệ thuế được trả bởi 400 so với thuế hàng đầu được trả bởi 0,001 phần trăm chỉ thay đổiMột cửa sổ nhỏ khoảng 0,59.Do đó, chúng tôi ước tính các khoản thuế được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất trong giai đoạn 2015 đến 2018 bằng cách giả định rằng số tiền thuế là 0,59 lần so với thuế 0,001 phần trăm trong giai đoạn này.Ước tính SOI của chúng tôi về thuế 20102018 của chúng tôi được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất tương đương với các loại thuế Top-400 thực tế trong các năm 2010-2014, cộng với ước tính của chúng tôi trong năm 2015 20152018.

Ước tính của chúng tôi về thuế 201020182018 của chúng tôi được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất chắc chắn vượt quá thuế 201020182018 được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất: một số gia đình giàu có nhất có thu nhập được báo cáo thấp hơn và trả ít thuế hơn.Ví dụ, Warren Buffett là thành viên của Forbes 400 2015, nhưng thông tin khai thuế năm 2015 tự nguyện của ông cho thấy tổng thu nhập gộp năm 2015 là 11,6 triệu đô la (Cohen 2016).Ngưỡng cho các nhóm phần trăm hàng đầu trong năm 2015 trong ước tính SOI cho thấy 11,9 triệu đô la được yêu cầu nằm trong top 0,01 phần trăm (khoảng 14.000 gia đình).Do đó, Buffett thậm chí không nằm trong 14.000 đơn vị thuế hàng đầu được xếp hạng theo thu nhập được báo cáo, chứ đừng nói đến 400 top được xếp hạng theo thu nhập được báo cáo.Hơn nữa, ông đã trả 1,8 triệu đô la thuế thu nhập cá nhân liên bang trong năm 2015, ít hơn nhiều so với mức trung bình 36 triệu đô la cho 0,001 % hàng đầu hoặc trung bình 9 triệu đô la cho 0,01 % hàng đầu.Do đó, các khoản thuế năm 2015 được trả bởi 400 gia đình hàng đầu được xếp hạng theo thu nhập được báo cáo sẽ phóng đại các khoản thuế năm 2015 được trả bởi 400 gia đình hàng đầu được xếp hạng bởi sự giàu có.

Do đó, chúng tôi phải chuyển đổi ước tính thuế dựa trên SOI của chúng tôi được trả bởi các gia đình có thu nhập cao nhất thành ước tính thuế được trả bởi các gia đình giàu có cao nhất.Chúng tôi làm như vậy bằng cách nhân ước tính dựa trên SOI với hệ số điều chỉnh là 0,63, được xây dựng như sau từ khảo sát tài chính tiêu dùng có chứa thông tin cả về thu nhập gần đúng và về sự giàu có.

Một công thức giúp làm rõ phương pháp.Mục tiêu của chúng tôi đối với tử số của thuế suất là ước tính các khoản thuế được trả bởi các gia đình có cấp bậc giàu có 1 đến 400, mà chúng tôi viết là: TaxW1.400.Dữ liệu SOI cho chúng tôi ước tính các loại thuế được trả bởi các gia đình có cấp độ thu nhập được báo cáo 1 đến 400: taxi1.400.Lý tưởng nhất, chúng tôi sẽ nhân taxi1.400 với một yếu tố điều chỉnh (màu xanh) bằng tỷ lệ thuế của 400 gia đình giàu có cao nhất với thuế được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất:

10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

Tuy nhiên, yếu tố điều chỉnh lý tưởng không thể được đo trực tiếp trong dữ liệu có sẵn công khai.Nguồn dữ liệu có sẵn tốt nhất có sẵn thông tin về SCF SCF về các khoản thuế đã trả và loại trừ Forbes 400 giàu có nhất từ mẫu khảo sát bằng cách xây dựng.Chúng tôi đưa ra hai giả định cho phép một giả định ước tính yếu tố điều chỉnh lý tưởng bằng cách sử dụng thu nhập được báo cáo giữa các gia đình xếp hạng từ 401 đến 1400 (tức là, các nhóm tiếp theo 1.000 người được xếp hạng theo thu nhập được báo cáo hoặc bởi sự giàu có), xấp xỉ phần còn lại của đỉnh0,001 phần trăm.Đầu tiên, chúng tôi giả định rằng các nhóm có thu nhập cao nhất và giàu có cao nhất phải trả mức thuế trung bình tương tự. [7]& nbsp; thứ hai, chúng tôi giả định rằng tỷ lệ thu nhập được báo cáo cho 1.000 nhóm tiếp theo giống như tỷ lệ thu nhập được báo cáo cho 400 nhóm hàng đầu.Theo các giả định đó, người ta có thể thay thế hệ số điều chỉnh lý tưởng bằng hệ số điều chỉnh thay thế sau chỉ sử dụng thông tin tiếp theo:

10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

Ước tính thu nhập được báo cáo của 1.000 tiếp theo bởi sự giàu có IW401.1400 tương đối đơn giản: SCF loại trừ top 400 bởi sự giàu có, vì vậy chúng tôi chỉ cần sử dụng thu nhập được báo cáo của các gia đình giàu có nhất trong SCF. [8]

Ước tính thu nhập của 1000 tiếp theo theo thu nhập II401.1400 khó khăn hơn, vì nó phụ thuộc vào mức độ trùng lặp giữa Forbes 400 và top 400 theo thu nhập được báo cáo.Nếu có sự chồng chéo đầy đủ, thì không ai trong số 400 người đứng đầu theo thu nhập được báo cáo nên có trong SCF.Sau đó, chúng tôi có thể ước tính II401.1400 bằng cách sử dụng các quan sát SCF với thu nhập được báo cáo cao nhất;Làm như vậy sẽ mang lại một hệ số điều chỉnh là 0,44, tương tự như Saez và Zucman (2019). [9]Ở cực đoan khác, nếu không có Forbes 400 nằm trong top 1400 theo thu nhập, thì các quan sát SCF thích hợp sẽ sử dụng sẽ là những quan sát có thu nhập được báo cáo từ 401 đến 1400. Làm như vậy sẽ loại trừ nhiều gia đình có thu nhập cao từ các gia đình có thu nhập cao khỏiTính toán và do đó mang lại hệ số điều chỉnh cao hơn 0,66. [10]Một yếu tố điều chỉnh cao hơn dẫn đến ước tính thuế suất cao hơn.

Chúng tôi nghiêng về phía bảo thủ của quang phổ: chúng tôi giả sử sự chồng chéo 100 và ước tính II401.1400 bằng cách sử dụng thu nhập được báo cáo của các quan sát SCF đại diện cho các gia đình xếp hạng từ 301 đến 1300. Làm như vậy, chúng tôi có được hệ số điều chỉnh là 0,63.Do đó, ước tính của chúng tôi về thuế được trả bởi 400 gia đình giàu có nhất tương đương với các khoản thuế dựa trên SOI được trả bởi 400 gia đình có thu nhập cao nhất được nhân lên với yếu tố điều chỉnh 0,63 của chúng tôi.

Mẫu số: Thu nhập ước tính

Chúng tôi phân chia ước tính thuế của chúng tôi được trả bởi 400 người giàu nhất theo ước tính toàn diện hơn của chúng tôi về thu nhập 400 người giàu nhất: thay đổi của họ về sự giàu có, cộng với các loại thuế có thể ước tính dễ dàng.Biện pháp thu nhập này không bao gồm tiêu thụ và các loại thuế khác, điều này sẽ khiến chúng tôi đánh giá thấp thu nhập của Haig-Simons và do đó nói quá mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân liên bang đối với thu nhập của Haig-Simons.

Để ước tính thu nhập toàn diện trong giai đoạn 20102018, chúng tôi bắt đầu bằng cách trừ tổng số tài sản (giá trị ròng) của Forbes 400 vào năm 2009 từ tổng tài sản của Forbes 400 vào năm 2018. [11]Sau đó, chúng tôi thêm hai thành phần bổ sung của thu nhập Haig-Simons có sẵn trong dữ liệu thuế: Thuế thu nhập cá nhân liên bang được trả (ước tính ở trên) và các khoản khấu trừ thuế cá nhân của tiểu bang và địa phương (ước tính từ cùng một dữ liệu SOI sử dụng cùng một yếu tố điều chỉnh 0,63). [[12]

Ước tính và nhạy cảm

Sử dụng tử số và mẫu số ước tính của chúng tôi, ước tính chính của chúng tôi cho mức thuế thu nhập cá nhân liên bang 2010 2015 cho 400 người giàu nhất là 8,2 %.Đối với tử số, chúng tôi ước tính rằng 400 gia đình giàu có nhất đã trả 149 tỷ đô la thuế thu nhập cá nhân liên bang, tương đương với 237 tỷ đô la được trả bởi các gia đình có thu nhập cao nhất trong dữ liệu SOI nhân với 0,63.Đối với mẫu số, các ước tính của Forbes cho thấy 400 người giàu nhất đã trải qua sự thay đổi của cải trong giai đoạn 2010 20152018 là 1,62 nghìn tỷ đô la.Thêm 149 tỷ đô la thuế thu nhập cá nhân liên bang ước tính và ước tính tương tự khoảng 46 tỷ đô la thuế tiểu bang và địa phương, chúng tôi ước tính thu nhập 400 người giàu có nhất trong giai đoạn 2010 20152018 là 1,82 nghìn tỷ đô la.Chia 149 tỷ đô la cho 1,82 nghìn tỷ đô la, chúng tôi có được 8,2 %.

Phụ lục Bảng 1 trình bày phân tích độ nhạy cho các giai đoạn khác nhau.Cột 1 lặp lại phân tích chính của chúng tôi trong các khoảng thời gian bắt đầu trong những năm khác ngoài năm 2010 (tất cả kết thúc vào năm 2018).Phân tích của chúng tôi cho năm 2018 mang lại 8,5 phần trăm, trong năm năm gần đây nhất mang lại 9,8 % và trong 20 năm gần đây nhất là 10,2 %.Cột 2 lặp lại bài tập trong các khoảng thời gian kết thúc vào năm 2014, đó là năm cuối cùng không dựa vào dữ liệu thuế thu nhập cá nhân liên bang hàng đầu (mặc dù nó cũng bao gồm ít năm hơn với mức thuế suất tăng vốn sau năm 2012) cao hơn)).Phân tích của chúng tôi trong các năm 2010 20142014 mang lại 6,2 % và cho năm 2014 mang lại 6,3 %.Ngoài ra, thay thế năm 2009 Forbes 400 của cải bằng mức trung bình 2008 2008 của nó mang lại ước tính 8,6 %.

Hệ số điều chỉnh 0,63 của chúng tôi được ước tính với lỗi.Một trong những rủi ro đáng kể nhất đối với độ chính xác của ước tính là nếu thu nhập của top 400 theo sự giàu có so với 400 người hàng đầu theo tỷ lệ tương ứng đối với 1000 người không đảm bảo khác bao gồm lấy mẫu hoặc không lấy mẫu trongDữ liệu SCF mà chúng tôi dựa vào.Theo giả định cực đoan rằng các gia đình có thu nhập cao nhất là các gia đình giàu có cao nhất, yếu tố điều chỉnh sẽ bằng 1 và mức thuế trung bình cho 2010-2018 sẽ là 12,3 %.Mặt khác, nếu các gia đình giàu có cao nhất chỉ có 43 % thu nhập của các gia đình có thu nhập cao nhất theo phân tích SAEZ và Zucman, (2019), thì mức thuế suất trung bình sẽ là 5,8 %.Nếu các gia đình giàu có cao nhất có hệ thống khác với 1000 người tiếp theo có sẵn thông tin trong SCF, thì về nguyên tắc, tỷ lệ này có thể thấp hơn.

Chúng tôi xác định số đo thu nhập toàn diện hơn của chúng tôi sao cho nó thấp hơn một cách có hệ thống so với thu nhập Haig-Simons (trước thuế), bao gồm tất cả các loại thuế và tiêu dùng.Dữ liệu SOI chứa thông tin về một loại chi tiêu bổ sung có thể được bao gồm: đóng góp khấu trừ cho các tổ chức phi lợi nhuận.Khi bao gồm các khoản đóng góp khấu trừ này (ước tính theo cách tương tự như chúng tôi ước tính thuế tiểu bang và địa phương) trong thu nhập toàn diện, chúng tôi có được ước tính 7,9 %.

Forbes 400 giàu có chắc chắn được đo bằng lỗi.Một nghiên cứu tài liệu tích cực và đánh giá đo lường sự giàu có ở đầu phân phối của cải (ví dụ: Kennickell 2009; Johnson, Raub, và Newcomb 2013; Piketty 2014; Kopczuk 2015).Saez và Zucman (2016) sử dụng tờ khai thuế thu nhập vốn hóa, trong một số khoảng thời gian, ước tính tăng trưởng nhanh hơn trong sự giàu có hàng đầu so với SCF trong khi chủ yếu lấy Forbes như được đưa ra.Trong công việc đang diễn ra, Smith, Zidar và Zwick (2020) không công bố 400 ước tính hàng đầu, nhưng nhìn chung ước tính sự tăng trưởng chậm hơn trong tài sản hàng đầu, có thể phù hợp với Forbes bị đánh lừa, không thể định giá được tài sản không bị ngăn cản hoặc không thể quan sát quà tặng hoặcnợ nần.Tăng trưởng cao hơn trong tài sản hàng đầu sẽ dẫn đến mức thuế thấp hơn trong khi tăng trưởng của cải hàng đầu sẽ dẫn đến mức thuế cao hơn.Ví dụ, nếu Forbes 400 vượt quá mức tăng trưởng của cải hàng đầu một phần ba, ước tính của chúng tôi sẽ là 11,7 %.

Kết hợp dữ liệu trên ba nguồn dữ liệu cắt ngang mang lại một số sự không nhất quán trong các khoảng thời gian được nghiên cứu.Dân số mục tiêu của chúng tôi là người giàu nhất mỗi năm của giai đoạn được kiểm tra dựa trên sự giàu có cuối năm.Dữ liệu Forbes 400 được phát hành mỗi mùa thu.Yếu tố điều chỉnh 0,63 dựa trên các gia đình được xếp hạng theo thu nhập trong năm T, so với các gia đình được xếp hạng bởi sự giàu có khi được khảo sát tại một số thời điểm trong năm T+1 (mặc dù sự giàu có được báo cáo có thể hoặc không phải là hiện tại kể từ thời điểm họ được khảo sát).Kể từ khi các gia đình giàu có nhất thay đổi theo thời gian, việc trừ Forbes 400 tổng số trong các năm dưới mức thu nhập của những người giàu có nhất vào cuối mỗi năm, dẫn đến mức thuế đánh giá quá cao. [13]

Ước tính thuế suất thuế của chúng tôi thấp hơn đáng kể so với mức thuế thu nhập cá nhân hàng đầu của liên bang do Văn phòng Ngân sách Quốc hội, Ủy ban chung về Thuế, Bộ Tài chính và Trung tâm chính sách thuế. [14].Những ước tính này khác với chúng ta trong ba khía cạnh chính.Đầu tiên, và về cơ bản nhất là Văn phòng Ngân sách Quốc hội, Ủy ban chung về Thuế, Kho bạc và Trung tâm Chính sách thuế ước tính thuế suất thuế so với các biện pháp thu nhập mà phần lớn loại trừ lãi vốn chưa thực hiện.Do đó, các phân tích tìm thấy mức thuế cao hơn đáng kể so với chúng tôi vì chúng, ở các mức độ khác nhau, loại trừ thu nhập chưa được thúc đẩy thúc đẩy phân tích này có lợi cho các luồng thu nhập tiền mặt ước tính chính xác hơn.Thứ hai, lợi nhuận vốn được ưu tiên về thuế là một phần thu nhập lớn hơn cho top 400 so với các nhóm hàng đầu lớn hơn mà các ước tính khác được sản xuất.Thứ ba, chúng tôi kiểm tra thuế suất thuế thu nhập theo sự giàu có hơn là thu nhập và lãi vốn chưa thực hiện có thể thậm chí còn tập trung hơn trong các gia đình giàu có cao hơn so với các gia đình có thu nhập cao.

Chúng tôi kết thúc Phụ lục kỹ thuật này bằng cách nhấn mạnh sự không chắc chắn cơ bản trong các ước tính của chúng tôi.Chúng tôi hy vọng rằng phân tích của chúng tôi kích thích ước tính hơn nữa và đo lường trực tiếp thuế suất thuế thu nhập bao gồm thu nhập tăng vốn chưa thực hiện và bởi Tập đoàn tài sản.

Người giới thiệu

Bricker, J., P. Hansen và A.H. Volz.2019. Sự tập trung của cải ở Hoa Kỳ sau khi tăng thêm đuôi trên của khảo sát tài chính tiêu dùng.Thư kinh tế 184. (Liên kết)

Cohen, Patricia.2016. Buff Buffett gọi Trump, vô tội vạ và phát hành dữ liệu thuế của mình.Thời báo New York, ngày 10 tháng 10 (Liên kết)

Văn phòng Ngân sách Quốc hội.2021. Phân phối thu nhập hộ gia đình, 2018.(Liên kết)

Johnson, B., B. Raub và J. Newcomb.Một cái nhìn mới về kết nối phong phú thu nhập cho những người quá cố giàu có nhất nước Mỹ.SOI làm việc.Washington: Thống kê dịch vụ doanh thu nội bộ về thu nhập.(Liên kết)

Ủy ban chung về thuế.2012. Tổng quan về định nghĩa về thu nhập được sử dụng bởi các nhân viên của Ủy ban hỗn hợp về thuế trong các phân tích phân phối.JCX-15-12.(Liên kết)

Ủy ban chung về thuế.2021. Tổng quan về hệ thống thuế liên bang có hiệu lực cho năm 2021.JCX-18-21.(Liên kết)

Kennickell, A.B.2009. Các ao và suối: Sự giàu có và thu nhập ở Hoa Kỳ, 1989 đến 2007.Sê-ri thảo luận tài chính và kinh tế 2009-13.Washington: Hội đồng thống đốc của hệ thống dự trữ liên bang.(Liên kết)

Kopczuk, W. 2015. Chúng ta biết gì về sự phát triển của cổ phiếu tài sản hàng đầu ở Hoa Kỳ?Tạp chí Quan điểm kinh tế 29, không.1: 47-66.(Liên kết)

Piketty, T. 2014. Thủ đô trong thế kỷ hai mươi mốt.Cambridge: Nhà xuất bản Đại học Harvard.

Saez.E. và G. Zucman.2016. Sự bất bình đẳng của cải ở Hoa Kỳ từ năm 1913: bằng chứng từ dữ liệu thuế thu nhập được viết hoa.Tạp chí Kinh tế hàng quý 131, không.2: 519-578.(Liên kết)

Saez, E. và G. Zucman.2019. Thuế tài sản tiến bộ.Giấy tờ Brookings về dự thảo hội nghị hoạt động kinh tế.(Liên kết)

Smith, M., O. Zidar và E. Zwick.Năm 2020. Sự giàu có hàng đầu ở Mỹ: Ước tính mới và ý nghĩa của việc đánh thuế người giàu.Tài liệu làm việc, Kinh tế Princeton.(Liên kết)

Trung tâm chính sách thuế.2021.(Liên kết)

Bộ Tài chính Hoa Kỳ của Văn phòng Phân tích Thuế.2020. Bảng phân phối: 2021 001;Phân phối các gia đình, thu nhập tiền mặt và thuế liên bang theo luật hiện hành năm 2021.(Liên kết)

10 phần trăm hàng đầu trả 90 phần trăm thuế năm 2022

.Các lợi ích thuế thường áp dụng khác cũng có thể làm giảm thuế suất của công nhân.

.

[3] Tăng vốn chưa thực hiện là sự gia tăng giá trị của tài sản ngay cả trước khi tài sản được bán.Một cá nhân giàu có mua cổ phiếu công ty trị giá 100 triệu đô la, sau đó tăng giá trị lên 200 triệu đô la trong mười năm tới đã tích lũy 100 triệu đô la thu nhập tăng vốn chưa thực hiện trong giai đoạn đó.Những lợi ích vốn chưa thực hiện này là một nguồn thu nhập chính cho những người Mỹ giàu có nhất.

.Tỷ lệ phần trăm của 90, và ít hơn 1 phần trăm cho 50 phần trăm dưới cùng.

.

[6] Cách tiếp cận này sẽ ít thông tin hơn cho các gia đình trung lưu vì họ tiêu thụ một phần thu nhập lớn hơn nhiều.

[7] Chúng tôi thiếu bằng chứng trực tiếp về mức thuế suất trung bình được trả bởi các gia đình giàu có cao nhất.Về nguyên tắc, thuế suất trung bình có thể khác nhau theo một trong hai hướng.Các gia đình có thu nhập cao nhất có thể trả thuế suất trung bình thấp hơn vì họ có thu nhập cao do các khoản lãi vốn trong một năm lớn bị đánh thuế ở mức thấp.Ngoài ra, các gia đình giàu có cao nhất có thể trả một phần thấp hơn thu nhập hoàn trả thuế của họ bằng thuế do các khoản khấu trừ từ thiện lớn.

.Tuy nhiên, một số tài sản của Forbes 400 có thể được đại diện bởi các gia đình được đưa vào khảo sát mẫu tài chính tiêu dùng và một số quan sát bổ sung cũng được loại trừ khỏi mẫu SCF.Bricker, Hansen và Volz (2019) đề xuất một phương pháp tăng cường SCF với dữ liệu Forbes 400 mà không cần đếm gấp đôi.Chúng tôi đơn giản hóa bằng cách giả định rằng có một sự cắt giảm mạnh giữa hai và không dựa vào khảo sát tài chính tiêu dùng để tính toán bất kỳ tập hợp nào.

[9] Tuy nhiên, lưu ý rằng giả định của sự chồng chéo đầy đủ sẽ ngụ ý rằng tỷ lệ mong muốn cho top 400 sẽ là một.Trên thực tế, theo tập hợp các giả định này, giá trị cho 1000 tiếp theo sẽ là hướng dẫn kém về giá trị cho top 400. Khi thực hiện các quy trình được mô tả trong phần này, chúng tôi sử dụng SCFS 2001-2019 và trung bình điều chỉnh hàng năm kết quảCác yếu tố qua các năm để tăng kích thước mẫu hiệu quả của chúng tôi.

[10] Về mặt kỹ thuật, vì SCF là một cuộc khảo sát với trọng số mẫu, chúng tôi có nghĩa là các quan sát, khi có trọng số, đại diện cho các cấp bậc này.Chúng tôi phân chia các quan sát SCF rằng các ranh giới xếp hạng liên quan, phân bổ một phần tương ứng của trọng lượng quan sát cho mỗi bên của ranh giới.

[11] Ngày mà Forbes 400 ước tính của cải đã thay đổi theo thời gian.Năm 2020, Forbes đã sử dụng giá thị trường gần cuối tháng 7.Năm 2019, Forbes đã sử dụng giá thị trường vào tháng Chín.Để đơn giản, chúng tôi coi Forbes 400 là ước tính tài sản cuối năm.Danh sách Forbes là sự kết hợp của thông tin cấp độ con người và thông tin ngay lập tức.Bằng cách coi đó là thông tin cấp độ gia đình (chính xác hơn, mức thuế), ước tính thu nhập của chúng tôi có khả năng có thể bảo thủ, mặc dù chúng tôi dự đoán hiệu ứng này là nhỏ.

.Tiết2018.Luật thuế năm 2017 giới hạn khấu trừ thuế của tiểu bang và địa phương.Chỉ trong năm 2018, chúng tôi áp đặt tổng các khoản khấu trừ thuế của tiểu bang và địa phương của các đơn vị thuế 0,001% hàng đầu bằng cách nhân năm 2018 thuế liên bang hàng đầu năm 2018 với tỷ lệ tổng số tiền thuế 2014-2017 của tiểu bang và địa phương với tổng số 2014-2017.

.Trong trường hợp này, thuế suất của top 400 theo sự giàu có mỗi năm có thể đánh giá thấp ước tính vòng đời của thuế suất của những người cực kỳ giàu có.Tuy nhiên, không rõ ràng rằng, nếu đây là một mối quan tâm của chúng tôi về mức thuế suất của những người cực kỳ giàu có bị ảnh hưởng bởi nó.Nếu đó là trường hợp những người cực kỳ giàu có một cách có hệ thống không nhận ra thu nhập của họ khi họ nằm trong top 400 theo sự giàu có, yếu tố điều chỉnh của chúng tôi có thể đánh giá quá cao thu nhập chịu thuế của họ.

.Bộ Tài chính (2020) ước tính rằng mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang có thu nhập cao nhất 0,1 % các gia đình trong năm 2021 sẽ là 23 % và Trung tâm chính sách thuế (2021) ước tính rằng sẽ là 25 %.Ủy ban hỗn hợp về thuế (2021) ước tính rằng thuế suất cho các gia đình có thu nhập ít nhất 1 triệu đô la sẽ là 26 %.Đạo luật thuế năm 2017 đã giảm thuế suất thuế thu nhập cá nhân trong năm 2018. Tuy nhiên, hiệu ứng này là nhỏ so với sự khác biệt giữa mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân trung bình của liên bang đối với những người giàu nhất mà chúng tôi ước tính và các ước tính được trích dẫn ở đây.

Top 10 có trả 90 thuế không?

"Theo số lượng của chúng tôi, 95% tất cả các loại thuế liên bang được các hộ gia đình trả trong hai nhóm hàng đầu - những người kiếm được khoảng 98.000 đô la trở lên", người đồng nghiệp cấp cao của Trung tâm Chính sách thuế, Howard Gleckman nói.95% of all federal taxes are paid by households in the top two quintiles — those making about $98,000 or more," said Tax Policy Center senior fellow Howard Gleckman.

Bao nhiêu phần trăm thuế làm 10 phần trăm hàng đầu?

Báo cáo thu nhập và thuế được trả tăng trong năm tính thuế 2019.

Các tỷ phú có trả 90% thuế không?

Báo cáo OMB-CEA mới: Các tỷ phú trả thuế suất thuế thu nhập cá nhân trung bình chỉ là 8.2% cho quá lâu, nền kinh tế của chúng tôi đã thưởng cho sự giàu có thay vì làm việc với những người Mỹ giàu nhất và các tập đoàn lớn nhất với chi phí của người dân bình thường.

Top 10% phải trả 71% thuế?

10% hàng đầu kiếm được 48% thu nhập và trả 71% thuế thu nhập liên bang.Theo thời gian, người Mỹ có thu nhập cao đã đảm nhận một phần lớn hơn và lớn hơn chi phí của chính phủ.. Over time, high-income Americans have shouldered a larger and larger share of the cost of government.