5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Bức tranh chân dung lụa nghệ sĩ nhạc pop Andy Warhol vẽ nữ diễn viên quá cố, biểu tượng tình dục Marilyn Monroe của Hollywood, được chào bán đấu giá vào mùa xuân năm nay với giá 200 triệu USD, cao gấp đôi giá bán kỷ lục trước đó của nghệ sĩ cũng như đắt nhất trong số các tranh từng được bán từ trước đến giờ, Wall Street Journal dẫn thông tin từ nhà đấu giá Christie’s cho biết.

Trong tác phẩm Shot Sage Blue Marilyn vẽ vào năm 1964, Warhol lấy ý tưởng từ bức ảnh quảng cáo trong bộ phim Niagara chiếu vàonăm 1953 của Monroe và tạo cho nữ diễn viên khuôn mặt hồng, mắt kẻ xanh cùng với làn môi đỏ trên nền hoa xô thơm.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022
Andy Warhol đứng trước bức chân dung kép của ngôi sao điện ảnh Hollywood Marilyn Monroe quá cố tại Phòng trưng bày Tate, Millbank, trong buổi giới thiệu báo chí về triển lãm của ông. Ảnh: PA Images via Getty Images/Forbes

Khách đến studio của Warhol, The Factory, trên Phố Đông 47 ở New York, rất chú ý đến tác phẩm này vì nằm trong loạt các bức tranh chân dung ngôi sao “Shot Marilyns”.

Nếu tác phẩm bán với giá 200 triệu USD thì sẽ vượt xa giá kỷ lục 105,4 triệu USD của bức tranh “Silver Car Crash (Double Disaster),” Warhol từng bán vào năm 2013, và đạt mức giá cao ngất ngưởng trong các tác phẩm của Warhol bán trên thị trường tư nhân, theo Journal.

“Shot Sage Blue Marilyn” cũng là tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế kỷ 20 từng được bán đấu giá, cũng là cuộc đấu giá từ thiện có doanh thu cao nhất kể từ khi Peggy và David Rockefeller bán bộ sưu tập vào năm 2018 với giá 832 triệu USD, tất cả đều được tặng cho các hoạt động thiện nguyện.

Quỹ từ thiện, do nhà buôn nghệ thuật quá cố của Zurich Doris Ammann thành lập trước khi bà qua đời vào năm ngoái, đang bán “Shot Sage Blue Marilyn” thông qua Christie’s vào mùa xuân này tại New York, với số tiền thu được sẽ tặng cho các tổ chức từ thiện hỗ trợ trẻ em.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022
“Shot Sage Blue Marilyn” năm 1964 của Andy Warhol được trưng bày trong buổi ra mắt với báo chí vào ngày 21.3.2022 tại New York. Ảnh: AFP Via Getty Images/Forbes

Shot Sage Blue Marilyn được trưng bày tại các bảo tàng nổi tiếng như Guggenheim ở New York, Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Chicago, Trung tâm Pompidou ở Paris và Tate ở London.

“Salvator Mundi” của Leonardo da Vinci là tác phẩm được bán với giá đắt nhất 450 triệu USD vào năm 2017, cũng thông qua nhà đấu giá Christie’s. Thái tử Saudi Arabia Mohammed bin Salman mua bức tranh này, theo Journal.

Các tác phẩm pop art có màu sắc rực rỡ của Warhol là một trong những nghệ thuật dễ nhận biết nhất trên thế giới. Ông hoàn thành những bức chân dung về Monroe sau khi bà đột ngột qua đời vào năm 1962. Đây là một trong những bức tranh biểu tượng nhất của ông và góp phần giúp tên tuổi bà vẫn được biết đến trong sáu thập niên sau khi qua đời. Năm ngoái, bức tranh lụa chân dung vẽ 9 khuôn mặt của Monroe thuộc sở hữu của tỉ phú bất động sản Henry Macklowe và vợ cũ, Linda, được bán với giá 47,4 triệu USD.

Biên dịch: Gia Nhi

Xem thêm: Triển lãm tiết lộ những sáng tác nghệ thuật về Vatican của Andy Warhol

Cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) đã ảnh hưởng bao trùm lên tư tưởng sáng tạo của rất nhiều nghệ sĩ đương đại. Sự ra đời của hàng loạt các khái niệm mới: Anti-art (phản nghệ thuật ); Outsider art (nghệ thuật Bên ngoài); Neo-DaDa (Tân DaDa); Conceptual art (nghệ thuật Khái niệm); Psychedelic art (nghệ thuật Ảo giác ); Pop art (nghệ thuật Bình dân); Visionary art (nghệ thuật Hư ảo); Fluxus art (nghệ thuật Dòng chảy); Interactive art (nghệ thuật Tương tác); Assemblage art (nghệ thuật kết hợp); Postminialism art (nghệ thuật Hậu tối giản); Land art (nghệ thuật Miền đất); Installation art (nghệ thuật Sắp đặt); Lowbrow art (nghệ thuật Ít học); Graffiti art (nghệ thuật tranh trên tường đường phố); Digital art (nghệ thuật Kỹ thuật số); Telematic art (nghệ thuật viễn thông); Performance art (nghệ thuật Trình diễn); Video art (nghệ thuật Video); Neo-expressionism (nghệ thuật Tân biểu hiện); Appropriation art (nghệ thuật Chiếm hữu); Neo-Conceptual art (nghệ thuật Tân khái niệm ); ASCII art (nghệ thuật thiết kế đồ họa có sử dụng máy tính); Pevement art (nghệ thuật vẽ trên vỉa hè ); Plop art (nghệ thuật công cộng ); Live art (nghệ thuật Sống); Internet art (Nghệ thuật internet)… được gọi là các trào lưu của nghệ thuật hậu hiện đại (postmodermism art) và cũng được gọi chung là: nghệ thuật đương đại (bởi những trường phái trên thuộc về lĩnh vực mỹ thuật nên ta có thể gọi chính xác hơn là nghệ thuật thị giác đương đại) đã tạo nên những làn sóng mới trong thế giới nghệ thuật ở giữa và cuối thế kỷ 20…

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Qua lịch sử sự hình thành các quan niệm của xu hướng thẩm mỹ và những trải nghiệm của chính người nghệ sĩ, chúng ta có thể nhận thấy rằng:

Tiến trình đi đến cái đẹp là đa hướng – đa phương tiện – vô tận – không có điểm dừng kết thúc.

Ở đâu người nghệ sĩ được tự do phơi lộ trần trụi tâm trạng trình diễn những cảm xúc suy tư hoang vu dữ dội mãnh liệt nhất trong sâu thẳm nội tâm, trong bản ngã vô thức, ở đó là thiên đàng của cái đẹp mơ mộng, hoành tráng nhất, nghệ thuật được sáng tạo mãnh liệt nhất.

Tâm hồn trí tuệ thưởng ngoạn nghệ thuật luôn có nhu cầu tự do “nổi loạn cảm xúc và nhận thức” để có được sự thay đổi quan niệm về thẩm mỹ.

Cái đẹp luôn gào thét trong câm lặng mời gọi hồn thi nhân nghệ sĩ.

Lạc thú thị giác có thể xúc tác làm thăng hoa biến đổi tâm hồn trí tuệ.

Tác phẩm chính là dấu vết tâm hồn linh hồn của người nghệ sĩ.

Mỗi xu hướng mỗi kiệt tác nghệ thuật đều có triết lý riêng của nó.

Trình độ tâm hồn trí tuệ thẩm mỹ của một dân tộc được biểu lộ qua thi ca, âm nhạc, nghệ thuật, triết học và khoa học.

Thần sắc bí ẩn của cái đẹp được phát lộ bởi con mắt của bậc thầy có tuệ nhãn siêu việt.

Ba cái huyền diệu bí truyền của năng lượng thụ cảm cái đẹp: “Diệu tâm – Diệu trí – Diệu mỹ”.

Vẻ đẹp thiên nhiên là ngôn lời hùng biện của Thượng đế, vẻ đẹp nghệ thuật là ngôn lời hùng biện của nghệ sĩ.

Trong màn đêm tĩnh lặng, nội tâm ta có thể thụ cảm được vẻ đẹp của cõi hư không.

Phát hiện ra bí ẩn của những cái đẹp của nghệ thuật là sự xuất thần của năng lượng trực giác, nhiều hơn là sự công phu khổ luyện.

Kỹ năng tuyệt hảo đòi hỏi công phu khổ luyện, khả năng thụ cảm thẩm mỹ là sự xuất thần bí ẩn của năng lượng trực giác

Nghệ thuật thị giác đương đại luôn có xu hướng sáng tạo: “Những hình thể phi lý vô trật tự gây ảo ảnh rối loạn thị giác”.

Danh họa Dalí viết: “Tự do là vô hình thể – một bông hồng sẽ là nhà tù”.

Một thi nhân danh tiếng viết: “Nghệ sĩ nhìn cái đẹp như chàng trai ngắm nhìn người tình”.

Dưới đây là một số những tư liệu do Museum TATE (Bảo tàng TATE Anh Quốc) biên soạn ghi chú một cách ngắn gọn súc tích, phát hành cung cấp thêm cho các nghệ sĩ tham khảo để có một cái nhìn tối thiểu tổng thể về các xu hướng của nghệ thuật thị giác đương đại.

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI (POSTMODERNISM)

Trong nghệ thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại đặc biệt là một phản ứng chống lại chủ nghĩa hiện đại đã thống trị lý thuyết và thực tiễn nghệ thuật từ đầu thế kỷ XX. Thuật ngữ “Chủ nghĩa hậu hiện đại” (Postmodernism) cũng được sử dụng rộng rãi để mô tả các thách thức và thay đổi đối với các cấu trúc và hệ thống tín ngưỡng đã được hình thành trong xã hội và văn hoá phương Tây từ những năm 60 trở đi.

Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào khoảng năm 1970. Theo một phong trào nghệ thuật hậu hiện đại, một mức độ nào đó thách thức định nghĩa, vì không có một phong cách hậu hiện đại hay lý thuyết mà nó có thể được gắn bản lề. Nó bao gồm nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với việc tạo ra nghệ thuật và có thể bắt đầu bằng nghệ thuật POP vào những năm 1960 và bao gồm nhiều thứ như nghệ thuật Khái niệm, nghệ thuật Tân biểu hiện, nghệ thuật Nữ quyền và của những nghệ sĩ trẻ của những năm 1990.

CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI VÀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

Chủ nghĩa hậu hiện đại là một phản ứng chống lại chủ nghĩa hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại nói chung dựa trên chủ nghĩa duy tâm và một tầm nhìn không tưởng về cuộc sống và xã hội của con người và niềm tin vào sự tiến bộ. Nó giả định rằng một số nguyên lý phổ quát tối đa hoặc các sự thật như những gì được hình thành bởi tôn giáo hoặc khoa học có thể được sử dụng để hiểu hoặc giải thích thực tại.

Các nghệ sỹ hiện đại đã thử nghiệm hình thức, kỹ thuật và các quá trình hơn là tập trung vào các chủ đề, họ tin rằng có thể tìm ra một cách để phản ánh hoàn toàn thế giới hiện đại.

Trong khi chủ nghĩa hiện đại dựa trên chủ nghĩa lý tưởng và lý trí, chủ nghĩa hậu hiện đại đã sinh ra do chủ nghĩa hoài nghi và sự nghi ngờ về lý trí. Nó thách thức quan niệm rằng có những điều chắc chắn hoặc là sự thật. Nghệ thuật hậu hiện đại đã dựa trên triết học từ giữa đến cuối thế kỷ XX, ủng hộ những trải nghiệm cá nhân và giải thích những kinh nghiệm của cái tôi là cụ thể hơn các nguyên tắc trừu tượng. Trong khi các nhà hiện đại đã cố gắng cổ vũ cho sự rõ ràng và sự đơn giản, chủ nghĩa hậu hiện đại đã chấp nhận các lớp hình thức phức tạp và thường mâu thuẫn về ý nghĩa.

Chống độc quyền của tạo hóa, chủ nghĩa hậu hiện đại đã từ chối thừa nhận quyền uy của bất kỳ một phong cách trường phái đơn lẻ nào hoặc có thể định nghĩa lại nghệ thuật nên là như thế nào. Nó phá bỏ sự khác biệt giữa văn hóa cao với văn hóa quần chúng hoặc với văn hóa phổ biến giữa nghệ thuật và cuộc sống hàng ngày. Bởi chủ nghĩa hậu hiện đại đã phá vỡ các quy tắc đã được thiết lập về phong cách trường phái, nó đã giới thiệu một kỷ nguyên mới của tự do và ý thức rằng “mọi cái đều trôi đi”. Thường thì sự vui nhộn, giễu nhại hoặc đôi khi có thể là lố bịch; nó có thể bị đối đầu và được gây tranh cãi, nó thách thức ranh giới của các hình thái nghệ thuật. Nhưng điều quan trọng nhất, nó phản ảnh sự tự nhận thức về phong cách của chính nó. Nghệ thuật hậu hiện đại có thể tự ý thức vay mượn hoặc mỉa mai nhận xét bình luận trong một phạm vi nào đó về một loạt các phong cách trong quá khứ và thường pha trộn các phong cách trường phái, các phương tiện truyền thông và của những nghệ thuật khác nhau.

PHẢN NGHỆ THUẬT (ANTI-ART)

Phản nghệ thuật là thuật ngữ được sử dụng để mô tả nghệ thuật thách thức các định nghĩa hiện có của nghệ thuật.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Fountain, Marcel Duchamp. 

Thuật ngữ “Phản nghệ thuật” đã được đặt ra bởi Marcel Duchamp vào khoảng năm 1913 khi ông làm readymades (đồ vật được sản xuất làm sẵn) đầu tiên của ông – điều đó đã gây được sự chú ý trong một sự hiếm có như là phản nghệ thuật. Năm 1917, Duchamp đã gửi một chiếc chậu đi tiểu có tên là Fountain (Đài phun nước) cho một cuộc triển lãm ở New York, sau đó trở nên nổi tiếng và cuối cùng có ảnh hưởng lớn. Phản nghệ thuật có liên quan đến dada – một phong trào nghệ thuật và văn học được thành lập ở Zurich vào năm 1916 và đồng thời ở New York – trong đó Duchamp là một nhân vật trung tâm. Giới nghệ thuật đã có sự chuyển biến ảnh hưởng và chấp nhận “Phản nghệ thuật” như là một trò chơi chữ của Duchamp.

NGHỆ THUẬT ĐẠI CHÚNG (POP ART)

POP ART là một phong trào nghệ thuật nổi lên trong những năm 1950 và phát triển mạnh trong những năm 1960 ở Mỹ và Anh, lấy cảm hứng từ các nguồn văn hóa phổ biến và thương mại. Các nền văn hoá và quốc gia khác nhau đã góp phần vào phong trào trong những năm 1960 và 70.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Xuất hiện vào giữa những năm 1950 ở Anh và cuối những năm 1950 ở Mỹ, nghệ thuật pop đạt đến đỉnh điểm vào những năm 1960. Nó bắt đầu như là một cuộc nổi dậy chống lại các phương pháp chủ đạo đối với nghệ thuật và văn hoá và các quan điểm truyền thống về nghệ thuật nên là gì. Các nghệ sỹ trẻ cảm thấy rằng những gì họ được dạy ở trường nghệ thuật và những gì họ thấy trong các viện bảo tàng không có liên quan gì đến cuộc sống của họ hoặc những gì họ nhìn thấy xung quanh họ mỗi ngày. Thay vào đó, họ chuyển sang các nguồn khác như phim Hollywood, quảng cáo, bao bì sản phẩm, nhạc pop và sách truyện tranh cho hình ảnh của họ tạo dựng nên.

Năm 1957, nghệ sĩ nhạc pop Richard Hamilton đã liệt kê các “đặc tính của nghệ thuật pop” trong một lá thư cho bạn bè của ông – kiến trúc sư Peter và Alison Smithson:

“Pop Art là: Phổ biến (được thiết kế dành cho khán giả đại chúng) – Thoáng qua (Giải pháp ngắn hạn), Chi phí phải chăng (dễ lãng quên) – Chi phí thấp – Sản xuất đại trà – Trẻ trung (nhằm vào tuổi trẻ) – Hạnh phúc – Sexy – Quyến rũ – Phô trương – Kinh doanh lớn.”

Các nhà phê bình hiện đại đã bị làm kinh hoàng bởi việc các nghệ sĩ nhạc pop sử dụng chủ đề bình thường như vậy và bằng cách xử lý nó một cách không phê phán. Trong thực tế, nghệ thuật pop đã rơi vào các lĩnh vực mới của chủ đề và phát triển những cách mới trình bày nó trong nghệ thuật và có thể được xem như là một trong những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại .

POP MỸ ĐỐI NGHỊCH VỚI POP ANH

Mặc dù họ đã được truyền cảm hứng bởi các chủ đề tương tự – pop Anh thường được xem là đặc biệt từ pop Mỹ.

Nghệ thuật pop ở Anh đã được thúc đẩy bởi nền văn hoá phổ biến – ở Mỹ được nhìn từ xa – trong khi các nghệ sỹ Mỹ được lấy cảm hứng từ những gì họ nhìn thấy và trải nghiệm sống trong nền văn hoá đó.

Ở Hoa Kỳ, phong cách pop là sự trở lại của nghệ thuật biểu diễn (nghệ thuật miêu tả thế giới thị giác theo một cách dễ nhận thấy) và việc sử dụng các cạnh thô cứng và các hình dạng khác biệt sau sự lỏng lẻo xô lệch của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng. Bằng cách sử dụng hình ảnh phi nhân tạo, phi thường, các nghệ sĩ nhạc pop cũng muốn tránh xa sự nhấn mạnh vào cảm xúc cá nhân và biểu tượng cá nhân mang đặc trưng của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng.

Ở Anh, phong trào nghệ thuật mang tính học thuật hơn trong cách tiếp cận của nó. Trong khi sử dụng sự mỉa mai và sự nhại lại, nó tập trung nhiều hơn vào những gì mà hình ảnh phổ biến ở Mỹ đại diện và sức mạnh của nó trong việc vận dụng lối sống của người dân. Nhóm nghệ thuật thập niên 1950 Nhóm độc lập (IG) được coi là tiền thân của phong trào nghệ thuật Pop của Anh.

NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT (INSTALLATION ART)

Thuật ngữ nghệ thuật sắp đặt được sử dụng để mô tả các công trình có quy mô lớn – đa phương tiện – thường được thiết kế cho một địa điểm cụ thể hoặc trong một khoảng thời gian tạm thời.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Các tác phẩm nghệ thuật sắp đặt (đôi khi được mô tả là ‘môi trường’) thường chiếm toàn bộ không gian hoặc không gian phòng trưng bày mà khán giả phải đi qua để có thể tham gia đầy đủ vào công việc nghệ thuật. Tuy nhiên, một số thiết bị được thiết kế đơn giản chỉ để đi bộ và suy ngẫm hoặc rất mong manh mà chỉ có thể nhìn từ cửa ra vào hoặc ở cuối phòng. Điều làm cho nghệ thuật sắp đặt khác với tác phẩm điêu khắc hoặc các hình thức nghệ thuật truyền thống khác là nó là một trải nghiệm thống nhất hoàn hảo chứ không phải là trưng bày các tác phẩm nghệ thuật riêng lẻ. Việc tập trung vào việc khán giả trải nghiệm công việc như thế nào và mong muốn mang lại trải nghiệm mãnh liệt cho họ là một chủ đề nổi bật trong nghệ thuật sắp đặt. Như nghệ sĩ Ilya Kabakov nói: “Diễn viên chính trong tổng số sắp đặt – trung tâm chính mà mọi thứ được giải quyết – với mọi thứ đều là người xem.”

Nghệ thuật sắp đặt nổi lên từ môi trường mà các nghệ sĩ như Allan Kaprow thực hiện từ năm 1957 trở đi mặc dù có những tiền thân quan trọng như Merzbau 1933 của Kurt Schwitters là môi trường của một số phòng được tạo ra trong ngôi nhà của họa sĩ ở Hanover. Trong một cuộc phỏng vấn không công bố xuất bản năm 1965, Allan Kaprow nói về môi trường đầu tiên của ông: “Tôi chỉ đơn giản là lấp đầy toàn bộ bộ sưu tập… Khi bạn mở cửa – bạn thấy mình đang ở giữa toàn bộ môi trường… Các vật liệu đã được thay đổi: các tấm nhựa – những tờ giấy lộn xộn – các miếng bọt Scotch – những vết rạch nham nhở – những miếng vải màu… 5 máy ghi âm đặt xung quanh phòng truyền đi âm nhạc điện tử mà tôi đã sáng tác vang lên khắp không gian”.

Từ những năm 1960 việc tạo ra các thiết bị sắp đặt đã trở thành một mảng chính trong nghệ thuật hiện đại. Điều này càng ngày càng trở nên rõ ràng từ đầu những năm 1990 khi sự sụp đổ của thị trường nghệ thuật vào cuối những năm 1980 đã dẫn tới việc làm sáng tỏ sự quan tâm đến nghệ thuật khái niệm (nghệ thuật tập trung vào các ý tưởng hơn là đối tượng). Các vật liệu khác (hỗn hợp) – ánh sáng và âm thanh vẫn là nền tảng của nghệ thuật sắp đặt.

NGHỆ THUẬT TRÌNH DIỄN (PERFORMANCE ART)

Tác phẩm nghệ thuật được tạo ra thông qua các hành động được thực hiện bởi nghệ sĩ hoặc những người tham gia khác có thể là trực tiếp hoặc được ghi lại tự phát hoặc có kịch bản.

Mặc dù thuật ngữ “trình diễn” và “nghệ thuật trình diễn” chỉ trở nên phổ biến trong những năm 70, lịch sử biểu diễn trong nghệ thuật thị giác thường được bắt nguồn từ những sản phẩm mang tính vị lai và dada – cabarets (cabarets là trò múa hát vui trong các quán rượu hay hộp đêm ở Mỹ vào những năm 1910.)

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Trong suốt thế kỷ 20, màn trình diễn thường được coi như là một cách làm nghệ thuật phi truyền thống. Cuộc sống, phong trào vật chất và sự vô thường đã cung cấp cho các nghệ sĩ sự lựa chọn thay thế cho sự tĩnh lặng bất động của các bức tranh và điêu khắc.

Trong giai đoạn hậu chiến tranh đã trở nên phù hợp với nghệ thuật khái niệm vì bản chất thường không quan trọng.

Bây giờ là một phần được chấp nhận của thế giới nghệ thuật thị giác, thuật ngữ này đã từng được sử dụng để mô tả các tác phẩm nghệ thuật bằng phim ảnh, video, nhiếp ảnh và sắp đặt thông qua đó là các hành động của nghệ sĩ – người biểu diễn hoặc khán giả được truyền tải.

Gần đây hơn, Perormance art được hiểu như là một cách trực tiếp được gắn liền với thực tế xã hội – những chi tiết về không gian và bản sắc của chính trị. Nó như là một phương tiện hơn là một tác phẩm nghệ thuật thuần túy để có thể tạo ra một tập hợp các câu hỏi và mối quan tâm về nghệ thuật liên quan đến con người và thế giới xã hội rộng lớn hơn.

NGHỆ THUẬT KỸ THUẬT SỐ (DIGITAL ART)

Nghệ thuật kỹ thuật số là thuật ngữ được sử dụng để mô tả nghệ thuật được tạo ra hoặc trình bày bằng cách sử dụng công nghệ kỹ thuật số.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Việc sử dụng thuật ngữ kỹ thuật số đầu tiên là vào đầu những năm 1980 khi các kỹ sư máy tính lập ra một chương trình vẽ được sử dụng bởi nghệ sĩ kỹ thuật số tiên phong Harold Cohen. Điều này được biết đến như là AARON – một loại máy robot được thiết kế để làm các bản vẽ lớn trên các tờ giấy đặt trên sàn nhà. Kể từ lần tấn công đầu tiên này vào trí tuệ nhân tạo, Cohen đã tiếp tục điều chỉnh chương trình AARON vì công nghệ trở nên phức tạp hơn.

Nghệ thuật kỹ thuật số có thể được máy tính tạo ra, quét hoặc rút ra bằng cách sử dụng máy tính bảng và chuột. Vào những năm 1990 nhờ cải tiến kỹ thuật số có thể tải video xuống máy tính cho phép các nghệ sỹ thao tác các hình ảnh mà họ quay bằng máy quay video. Điều này cho phép các nghệ sĩ tự do sáng tạo mà chưa từng có kinh nghiệm trước với bộ phim, cho phép họ cắt và dán trong sự di chuyển hình ảnh để tạo ra những hình ảnh cắt dán khác.

Trong thời gian gần đây, một số Digital art đã trở nên tương tác cho phép khán giả kiểm soát điều khiển được những hình ảnh cuối cùng.

NGHỆ THUẬT VIDEO (VIDEO ART)

Nghệ thuật liên quan đến việc sử dụng dữ liệu video và hoặc âm thanh dựa vào hình ảnh chuyển động.

Việc giới thiệu video vào những năm 1960 đã thay đổi hoàn toàn tiến bộ của nghệ thuật. Các khía cạnh quan trọng nhất của video là nó có được giá rẻ và đơn giản dễ làm cho phép các nghệ sĩ ghi lại tài liệu của họ và trình diễn một cách dễ dàng. Điều này đã tạo ra ít áp lực vào nghệ thuật của họ, đặt cho họ được tự do nơi bên ngoài phòng trưng bày.

Một trong những người tiên phong về nghệ thuật video là Bruce Nauman – người đã sử dụng video để khám phá các quy trình sáng tạo ẩn của nghệ sĩ bằng cách tự quay phim trong phòng thu của mình. Khi công nghệ video trở nên phức tạp hơn, nghệ thuật phát triển từ các bản ghi thời gian thực tế, sự gồ ghề biến đổi nhanh của sắc đen và trắng cho tới ngày nay nhấn mạnh vào các sắp đặt màu lớn như các tác phẩm đa màn hình của Bill Viola. Các nghệ sĩ khác ví dụ như Gillian Wearing sử dụng một phong cách dùng tài liệu để tạo ra nghệ thuật về các khía cạnh ẩn của xã hội.

NGHỆ THUẬT MÔI TRƯỜNG (ENVIRONMENTAL ART)

Nghệ thuật môi trường là nghệ thuật giải quyết các vấn đề xã hội và chính trị liên quan đến môi trường tự nhiên và đô thị. Nghệ thuật môi trường thường có hình thức sắp đặt. Thuật ngữ này được sử dụng vào cuối những năm 1960 và thường liên quan chặt chẽ đến nghệ thuật trên đất liền .

PHẢN HÌNH THỨC (ANTI-FORM)

Phản hình thức là một thuật ngữ gắn liền với một nhóm các nghệ sĩ làm việc tại Hoa Kỳ vào cuối những năm 1960 – những người nắm lấy cơ hội và các quá trình hữu cơ khác trong việc tạo tác các tác phẩm điêu khắc tối thiểu của họ.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Liên quan đến thời hậu chủ nghĩa tối giản – các nhà điêu khắc chống lại hình mẫu làm việc theo nguyên tắc hình thức nên được bắt nguồn từ những phẩm chất cố hữu của vật liệu đã chọn. Điều này khác với cách tiếp cận của các nhà điêu khắc nhỏ gọn trước đây đã áp đặt thứ tự trên vật liệu của họ và hạn chế bản thân với các hình dạng và cấu trúc hình học cố định.

Một ví dụ về Phản hình thức là tác phẩm điêu khắc “Untitled” (Chưa có tiêu đề) năm 1967 của Robert Morris – trong đó các dải treo của cảm ứng công nghiệp được phép rơi xuống mặt đất một cách tùy tiện. Bằng cách này nghệ sĩ đã phải từ bỏ sự kiểm soát của sự xuất hiện cuối cùng của tác phẩm nghệ thuật.

NGHỆ THUẬT DÒNG CHẢY (FLUXUS ART)

Fluxus art là một tập thể tiên phong quốc tế hoặc mạng lưới các nghệ sĩ và nhà soạn nhạc được thành lập vào những năm 1960 và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Được thành lập vào năm 1960 bởi nghệ sĩ George Maciunas của Lithuania. Fluxus art bắt đầu là một mạng lưới các nghệ sĩ và nhà soạn nhạc nhỏ nhưng mang tính quốc tế được mô tả như là một thái độ chia sẻ hơn là một phong trào. Bắt nguồn từ âm nhạc thực nghiệm, nó được đặt tên theo một tạp chí có tác phẩm của các nhạc sĩ và nghệ sĩ tập trung quanh nhà soạn nhạc tiên phong John Cage.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Từ Latin, “Fluxus” có nghĩa là “Dòng chảy” trong tiếng Anh dòng chảy là một sự tuôn chảy. Người sáng lập Fluxus art là Maciunas – nói rằng mục đích của Fluxus art là “thúc đẩy một cuộc cách mạng tuôn chảy dữ dội ttrong nghệ thuật – thúc đẩy nghệ thuật đang sinh tồn và phản nghệ thuật”. Điều này có tiếng vang mạnh mẽ của dada – một phong trào nghệ thuật đầu thế kỷ thứ XX.

Sự kiện Fluxus art đầu tiên được tổ chức vào năm 1961 tại AG Gallery ở New York và tiếp theo là các lễ hội ở Châu Âu vào năm 1962. Các trung tâm chính của hoạt động Fluxus là New York, Đức và Nhật Bản.

Fluxus art đóng một vai trò quan trọng trong việc mở ra những định nghĩa có thể được về nghệ thuật. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến bản chất của việc sản xuất nghệ thuật kể từ những năm 1960 – vốn đã chứng kiến một loạt các hình thức nghệ thuật đa dạng và tiếp cận hiện tại và phát triển bên cạnh nhau.

Fluxus art không có phong cách thống nhất duy nhất. Các nghệ sỹ đã sử dụng nhiều phương tiện truyền thông và quy trình áp dụng thái độ “tự làm” cho hoạt động sáng tạo, thường xuyên biểu diễn ngẫu nhiên và sử dụng bất cứ phương tiện nào có sẵn để tạo ra nghệ thuật. Nhìn thấy mình như là một sự thay thế cho nghệ thuật, học thuật và âm nhạc. Fluxus art là một hình thức dân chủ của sự sáng tạo mở cho bất cứ ai. Sự cộng tác được khuyến khích giữa các nghệ sĩ và giữa các nghệ thuật cũng như với độc giả hoặc người xem. Nó có giá trị đơn giản và chống thương mại với sự tình cờ và ngẫu nhiên đóng một phần lớn trong việc tạo ra các tác phẩm và sự hài hước cũng là một yếu tố quan trọng.

Nhiều nghệ sĩ tiên phong quan trọng trong những năm 60 đã tham gia vào Fluxus bao gồm: Joseph Beuys, Dick Higgins, Alice Hutchins, Yoko Ono, Nam June Paik, Ben Vautier, Robert Watts, Benjamin Patterson và Emmett Williams.

NGHỆ THUẬT ÂM THANH ( SOUND ART)

Nghệ thuật âm thanh bắt nguồn từ những phát minh ban đầu của nhà ngôn ngữ học Luigi Russolo – người từ năm 1913 đến năm 1930 đã chế tạo ra những chiếc máy gây tiếng ồn và làm lại tiếng ồn của thời đại công nghiệp và sự bùng nổ của chiến tranh. Các nghệ sĩ dada và siêu thực cũng đã thử nghiệm nghệ thuật sử dụng âm thanh. Tác phẩm Erratum Musical (Bản đính chính âm nhạc) của Marcel Duchamp gồm có ba giọng hát thu được từ một chiếc máy nghe nhạc – một hành động dường như tùy ý có tác động đến các tác phẩm của John Cage – người mà năm 1952 đã sáng tác “4’33”– một bản nhạc dài bốn phút ba mươi ba giây im lặng (bốn phút ba mươi ba giây là 273 giây. Nhiệt độ âm 273 độ C – là tuyệt đối không).

Vào những năm 1950 và 1960 các nghệ sĩ thị giác và các nhà soạn nhạc như Bill Fontana đã sử dụng những tác phẩm điêu khắc động và phương tiện truyền thông điện tử – âm thanh được ghi trước tồn tại chồng chéo để khám phá những không gian xung quanh.

Kể từ khi giới thiệu nghệ thuật âm thanh công nghệ kỹ thuật số đã trải qua một sự chuyển đổi triệt để. Các nghệ sỹ bây giờ có thể tạo hình ảnh trực quan để đáp ứng âm thanh cho phép khán giả kiểm soát điều khiển nghệ thuật thông qua tấm áp suất bằng cảm biến kích hoạt giọng nói và trong các ví dụ như “Longplayer” (người rong chơi) của Jem Finer – một âm thanh được cộng hưởng để nó có thể kéo dài trong một nghìn năm.

Âm thanh là vật chất vô hình nhưng nó là cảm xúc của tâm hồn. Nó có thể xác định một không gian cùng một lúc như nó gây nên trong ký ức.

NGHỆ THUẬT GRAFFITI (GRAFFITI ART)

Nghệ thuật graffiti là thuật ngữ dùng để chỉ các hình ảnh hoặc văn bản vẽ thường vào các tòa nhà thường sử dụng sơn phun.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Nghệ thuật graffiti có nguồn gốc từ những năm 70 của New York khi những người trẻ tuổi bắt đầu sử dụng sơn phun và các vật liệu khác để tạo ra những hình ảnh trên các tòa nhà và ở hai bên tàu điện ngầm. Hình vẽ graffiti có thể bao gồm từ các hình ảnh đồ họa sáng chói theo phong cách wildstyle (hoang dã) đến những biểu tượng cách điệu lồng vào nhau.

Graffiti như vậy là hiếm khi được nhìn thấy trong phòng trưng bày và viện bảo tàng nhưng thẩm mỹ của nó đã được kết hợp vào công việc của nghệ sĩ. Những tác phẩm nghệ thuật vẽ graffiti ban đầu bao gồm họa sĩ người Pháp Jean Dubuffet – những họa sĩ người New York, Jean Michel Basquiat và Keith Haring – những người có thể được định nghĩa là các nhà tiên phong về nghệ thuật đường phố. Gần đây, các nghệ sĩ graffiti như Barry McGee và Banksy đã có những tác phẩm của họ được trưng bày trong các không gian thương mại.

NGHỆ THUẬT MIỀN ĐẤT (LAND ART)

Nghệ thuật miền đất hoặc về đất đai là nghệ thuật được tạo ra trực tiếp trong các cảnh quan – tác phẩm điêu khắc đất tạo thành các công trình bằng đất hoặc làm cho cấu trúc trong cảnh quan sử dụng các vật liệu tự nhiên như đá hoặc cành cây.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Nghệ thuật miền đất là một phần của phong trào nghệ thuật khái niệm rộng lớn hơn trong những năm 1960 và 1970. Tác phẩm nghệ thuật miền đất nổi tiếng nhất là “Spiral Jetty” (Cầu tầu xoắn ốc) của Robert Smithson năm 1970 – một công trình đào bới xây dựng thành Great Salt Lake (Hồ muối vĩ đại) ở Mỹ. Mặc dù một số nghệ sĩ như Smithson đã sử dụng thiết bị di chuyển bằng máy cơ học để làm tác phẩm nghệ thuật của họ nhưng các nghệ sỹ khác đã thực hiện các biện pháp can thiệp tối thiểu và tạm thời trong phong cảnh như Richard Long – người chỉ đơn giản đi lên và xuống cho đến khi ông đã đánh dấu trên mặt đất.

Nghệ thuật miền đất – được biết đến như là nghệ thuật địa hình – thường được ghi lại trong các tác phẩm nghệ thuật sử dụng ảnh và bản đồ mà nghệ sỹ có thể trưng bày trong một phòng tranh. Các nghệ sỹ miền đất cũng đã làm nghệ thuật đất đai trong phòng tranh bằng cách đưa vật liệu vào từ thiên nhiên và sử dụng nó để tạo ra các bản sắp đặt .

Cũng như Richard Long và Robert Smithson – các nghệ sỹ đất đai chủ chốt bao gồm Walter de Maria – Michael Heizer và Dennis Oppenheim

NGHỆ THUẬT NỮ QUYỀN ( FEMINIST ART)

Nghệ thuật Nữ quyền là nghệ thuật của các nghệ sĩ có ý thức trong ánh sáng của sự phát triển trong lý thuyết nghệ thuật nữ quyền vào đầu những năm 1970.

Năm 1971, nhà sử học nghệ thuật Linda Nochlin xuất bản một bài tiểu luận đột phá: “Tại sao không có nữ nghệ sĩ vĩ đại !?”. Trong đó, cô điều tra các yếu tố xã hội và kinh tế đã ngăn cản những phụ nữ tài năng đạt được tình trạng giống như nam giới.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Vào những năm 1980, các nhà sử học nghệ thuật như Griselda Pollock và Rozsika Parker đã tiến xa hơn để nghiên cứu ngôn ngữ lịch sử nghệ thuật với các thuật ngữ mang tính giới tính như “bậc thầy lớn” và “kiệt tác”. Họ đã đặt câu hỏi về vị trí trung tâm của hình ảnh người phụ nữ khỏa thân trong kinh điển phương Tây và hỏi tại sao đàn ông và phụ nữ được thể hiện một cách khác nhau. Trong cuốn sách năm 1972 “Ways of Seeing” (Cách nhìn nhận), nhà phê bình Marxist John Berger đã kết luận: “Đàn ông nhìn phụ nữ. Phụ nữ xem mình đang được nhìn vào”. Nói cách khác, nghệ thuật phương Tây tái hiện lại những mối quan hệ bất bình đẳng đã tồn tại trong xã hội.

Trong những điều mà đôi khi được biết đến như là “First Wave” (Làn sóng Đầu tiên) của nghệ thuật nữ quyền, các nghệ sỹ nữ cảm thấy kinh nghiệm nữ tính – khám phá hình ảnh âm đạo và máu kinh nguyệt – giả vờ như nữ thần và sử dụng các phương tiện truyền thông giống như công việc thêu thùa được coi là “công việc của phụ nữ”. Một trong những tác phẩm biểu tượng vĩ đại của giai đoạn này của nghệ thuật nữ quyền là “The Dinner Party” (Bữa tiệc tối) của Judy Chicago năm 1974.

Các nhà phê bình nữ quyền sau này đã bác bỏ cách tiếp cận này và cố gắng để lộ ra nguồn gốc của ý tưởng về nữ tính và họ theo đuổi ý tưởng về tính nữ tính như là một masquerade (dạ hội hóa trang) – một tập hợp các hành vi được phụ nữ chấp nhận để phù hợp với kỳ vọng của xã hội về nữ tính.

Guerrilla Girls là một tập thể phụ nữ – những người vẫn vô danh bằng cách mang mặt nạ khỉ đột và tự đặt tên cho mình sau những người đàn bà nổi tiếng đã chết. Năm 1998 cuốn sách mới “Lịch sử Nghệ thuật phương Tây” của Guerrilla Girls – Người bạn đồng hành bên giường ngủ của The Guerrilla Girls đã viết:

“Chúng tôi là một nhóm phụ nữ và nghệ sĩ chuyên nghiệp chống lại sự phân biệt đối xử. Chúng tôi là lương tâm của thế giới nghệ thuật – đối tác của hầu hết các truyền thống nam giới của những người nổi tiếng vô danh như Robin Hood – Batman – và Lone Ranger. Chúng tôi đã sáng tạo ra hơn 80 áp phích – các tác phẩm in ấn – là những hành động phơi bày chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự phân biệt giới tính trong thế giới nghệ thuật và văn hoá nói chung… Chúng tôi sử dụng tính hài hước để chứng minh rằng các nhà nữ quyền có thể hài hước … Chúng ta có thể là bất cứ ai – chúng ta ở khắp nơi”.

NGHỆ THUẬT TỰ ĐỘNG PHÁ HỦY (AUTO-DESTRUCTIVE ART)

Nghệ thuật Tự hủy hoại là thuật ngữ do họa sĩ Gustav Metzger sáng tạo vào đầu những năm 1960 để mô tả các tác phẩm nghệ thuật cấp tiến của chính mình và những người khác trong đó sự hủy hoại là một phần của quá trình tạo ra tác phẩm.

Thuật ngữ Nghệ thuật Tự động phá hủy (Auto-Destructive) được tạo ra bởi Gustav Metzger ngay sau khi kết thúc Thế chiến II – trong thời kỳ bất ổn chính trị được gọi là Chiến tranh Lạnh. Việc phát minh ra vũ khí hạt nhân và sử dụng chúng bởi Mỹ chống lại Nhật Bản năm 1945 – đã để lại ấn tượng sâu sắc trên toàn thế giới. Trong phản ứng chống lại nhóm chống chiến tranh này – “Ủy ban của 100” (đã được Metzger tự đặt tên) được thành lập vào năm 1960 và Metzger bắt đầu vẽ những bức tranh bằng axit như một hình thức phản kháng sáng tạo.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022

Metzger lần đầu tiên đề cập đến nghệ thuật Auto-destructive trong bài báo của ông “Machine, Auto-creative và Auto-destructive Art” (Máy móc – Tự động sáng tạo và Tự động phá hủy) trong tạp chí Ark vào mùa hè năm 1962. Tuy nhiên, ông đã luyện tập hình thức này vài năm và sáng chế ra những bức tranh axit đầu tiên vào năm 1959 một phương tiện để phản đối chiến tranh hạt nhân. Các công trình này được tạo ra bằng cách phun axit lên trên tấm nylon tạo nên những hình dạng thay đổi nhanh trong tấm nylon làm cho tác phẩm tự động sáng tạo và tự hủy hoại: “Điều quan trọng là đốt một lỗ trong tờ giấy đó là nó đã mở ra một cái nhìn mới khắp Themes of St Paul’s Cathedral. (Những đề tài của Nhà thờ Thánh Paul ). Tự động phá hủy nghệ thuật không bao giờ đơn thuần là phá hoại. Phá hủy một bức tranh – bạn sáng tạo ra hình thức.” (Metzger trích dẫn của Stuart Jeffries, The Guardian, 2012).

Nghệ thuật Tự động phá hủy là vốn có về mặt chính trị; cũng mang theo những thông điệp anti-capitalist (chống chủ nghĩa tư bản) và chống lại người tiêu dùng. Nó đề cập tới niềm đam mê không lành mạnh của xã hội với sự phá hủy – cũng như tác động tiêu cực của máy móc vào sự tồn tại của chúng ta.

Năm 1966, Metzger và những người khác đã tổ chức hội nghị chuyên đề “Destruction in Art” (Sự phá hủy trong nghệ thuật) tại London. Tiếp sau đó là một hội nghị khác ở New York vào năm 1968. Hội nghị chuyên đề đã đi kèm với cuộc biểu tình nghệ thuật tự phá hủy của công chúng bao gồm việc thiêu cháy tháp Skoob của John Latham. Đây là tháp của những cuốn sách (skoob là sách đảo ngược) và ý định của Latham là để chứng minh trực tiếp quan điểm của ông rằng văn hoá phương Tây đã bị đốt cháy.

Năm 1960, họa sĩ người Thụy Sĩ Jean Tinguely đã tạo ra tác phẩm điêu khắc đầu tiên của mình là “Homage à New York” (Oh ! New York Tôn kính) – đã bị đập vỡ thành công trong “Vườn Điêu Khắc” của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại – New York.

Theo TẠP CHÍ MỸ THUẬT

Tags: Trào lưu nghệ thuật, Nghệ thuật đương đại

Trái: Chi tiết của 'Buffalo II' của Robert Rauschenberg, 1964. Phải: 'Người hút thuốc, 1 (miệng, 12)' của Tom Wesselmann, 1967.

Tất cả chúng ta đều đã thấy các lon súp Campbell của Andy Warhol và cuốn sách truyện tranh của Roy Lichtenstein-phong trào "nghệ thuật pop" xuất hiện trong những năm 1960 thực tế được xác định bởi những hình ảnh này. Nhưng thể loại này nói về nhiều hơn hai người này - hàng chục nghệ sĩ đã đạt được thành công tạo ra những tác phẩm đáng nhớ mà chúng tôi phân loại là nghệ thuật pop.

Và nghệ thuật pop là gì? Chà, đó có lẽ là phong trào nghệ thuật đa dạng nhất mọi thời đại, vì phạm vi điên rồ ở đây hiển thị. Một ý tưởng lớn trong nghệ thuật pop là coi minh họa hoặc thiết kế thương mại là nghệ thuật cao. Đó là loại pop súp, có thể là loại pop-ý tưởng rằng một sản phẩm được tạo ra để tiêu thụ hàng loạt là một chủ đề có giá trị cho nghệ thuật như một cảnh quan ở vùng nông thôn Pháp. Nghệ thuật pop cũng trực tiếp nâng hình ảnh từ văn hóa đại chúng, kéo ảnh hoặc hình ảnh phim ảnh vào các bản in hoặc ảnh ghép của silkscreen. & NBSP;

Phong trào nghệ thuật pop xuất hiện vào những năm 1950, theo một số người, trong phản ứng với chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng (nghĩ rằng Jackson Pollock). Nó thách thức nghệ thuật mỹ thuật truyền thống bằng cách kết hợp các yếu tố trong văn hóa đại chúng và cũng tìm thấy các mặt hàng. Một số nghệ sĩ nổi lên như một phần của phong trào.

5 nghệ sĩ pop art hàng đầu năm 2022
Khi tôi mở Fireby Roy Lichtenstein, 1964, Bảo tàng Stedelijk by Roy Lichtenstein, 1964, Stedelijk Museum

Pop Art là một phong trào phát triển vào giữa thế kỷ 20. Nó sử dụng các yếu tố từ văn hóa phổ biến bao gồm quảng cáo, tạp chí, logo sản phẩm và phương tiện truyền thông đại chúng để thách thức các quan niệm truyền thống về nghệ thuật. Nó cũng sử dụng châm biếm để đặt câu hỏi về chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa công nghiệp của văn hóa Mỹ. Dưới đây là một số người đóng góp mang tính biểu tượng nhất cho phong trào nghệ thuật pop và các tác phẩm nổi tiếng nhất của họ, kéo dài một loạt các phương tiện và ảnh hưởng. & NBSP; was a movement that developed in the mid-20th century. It utilized elements from popular culture including advertisements, magazines, product logos and mass media to challenge traditional notions of art. It also employed satire to question the consumerism and industrialism of American culture. Below are some of the most iconic contributors to the POP Art movement and their most famous works, which spanned a range of mediums and influences. 

Nghệ sĩ nghệ thuật nhạc pop Andy Warhol, Campbell, Súp, Marilyn Monroe và văn hóa đại chúng

Andy Warhol là một nghệ sĩ và nhà làm phim người Mỹ là thành viên hàng đầu của phong trào nghệ thuật pop. Tác phẩm của ông nổi tiếng với sự chiếm đoạt các phương tiện truyền thông, văn hóa và quảng cáo nổi tiếng. Ông đã sản xuất nghệ thuật trong nhiều phương tiện khác nhau bao gồm vẽ tranh, in trên màn hình, phim, điêu khắc và nhiếp ảnh. Ông được nhớ đến như một trong những nghệ sĩ sung mãn nhất của thế kỷ 20 và nghệ thuật của ông có thể nhận ra quốc tế bởi màu sắc tươi sáng và bản chất đơn giản của nó. was an American artist and filmmaker who was a leading member of the POP Art movement. His work is renowned for its appropriation of popular media, celebrity culture and advertisements. He produced art in a variety of mediums including painting, screen-printing, film, sculpture and photography. He is remembered as one of the most prolific artists of the 20th century and his art is internationally recognizable by its bright colors and simplistic nature.

Lon Súp Campbell (1962) & NBSP;

Lon Soup Campbell của Andy Warhol, 1962, MOMAby Andy Warhol, 1962, MoMA

Lon súp Campbell Campbell bao gồm nhiều bức tranh được căn chỉnh tuyến tính, như thể trên kệ cửa hàng tạp hóa. Mỗi người có một món súp Campbell Campbell có thể trong một hương vị khác nhau. Mặc dù mọi bức tranh đều được vẽ bằng tay, nhưng tất cả chúng đều được nhân rộng đồng đều, không thể phân biệt với nhau ngoại trừ các hương vị khác nhau của chúng. Do đó, tác phẩm thể hiện nghệ thuật pop sử dụng phong cách quảng cáo sản xuất hàng loạt. & NBSP; consists of multiple canvases that are aligned linearly, as if on a grocery store shelf. Each one features a Campbell’s soup can in a different flavor. Although every canvas is hand-painted, they are all uniformly replicated, indistinguishable from one another except for their different flavors. The piece thus exemplifies POP Art’s use of the mass production advertising style. 

Marilyn Diptych (1962) & NBSP;

Marilyn Diptych của Andy Warhol, 1962, Tateby Andy Warhol, 1962, Tate

Marilyn Diptych là một tác phẩm đa can của chân dung mô tả Marilyn Monroe. Mỗi khung vẽ được hiển thị bằng neon, chặn màu sắc với hiệu ứng lụa chồng chéo. Một nửa của bố cục được thực hiện bằng màu trong khi nửa còn lại là màu đen và trắng đơn sắc với hiệu ứng in phai màu. Nó minh họa cho tính vật chất cao của giữa thế kỷ 20, khẳng định rằng ngay cả mọi người cũng có thể được đối tượng hóa và hàng hóa. & NBSP;is a multi-canvas composition of portraits depicting Marilyn Monroe. Each canvas is rendered in neon, block colors with an overlapping silkscreen effect. One half of the composition is done in color while the other half is monochrome black and white with a faded printing effect. It exemplifies the heightened materiality of the mid 20th century, asserting that even people could be objectified and commodified. 

Bạn có thích bài viết này không?

Đăng ký nhận bản tin hàng tuần miễn phí của chúng tôi

Hộp Brillo (1964)

Hộp xà phòng brillo hộp của Andy Warhol, 1964, MOMAby Andy Warhol, 1964, MoMA

Hộp xà phòng Brillo đại diện cho thử nghiệm Warhol, với tác phẩm điêu khắc kiểu sản phẩm. Ông đã ủy thác một số thợ mộc để tạo ra các bản sao của các hộp siêu thị từ ván ép, sau đó vẽ chúng bằng thông tin và logo sản phẩm. Các hộp này gần giống với các đối tác chức năng của chúng. Logo ‘Brillo Soap Pads, logo đã trở thành sự phát triển nhất trong số này, bởi vì sự thay đổi của nó đã thách thức những gì được coi là nghệ thuật và cách xã hội tương tác với nó.represents Warhol’s experimentation with product-style sculpture. He commissioned several carpenters to create replicas of supermarket boxes from plywood, then painted them with product information and logos. These boxes were nearly identical to their functional counterparts. The ‘Brillo Soap Pads’ logo became the most prolific of these, because of its mundanity which challenged what is considered art and how society interacts with it.

Roy Lichtenstein: Truyện tranh và nghệ thuật pop

Roy Lichtenstein là một nghệ sĩ người Mỹ, một thành viên quan trọng của phong trào nghệ thuật pop. Công việc của ông được công nhận rộng rãi vì sử dụng nhại lại thông qua việc bắt chước các đầu ra phương tiện truyền thông đại chúng. Cụ thể, anh ta được liên kết với nghệ thuật thương mại, phong cách truyện tranh và việc sử dụng chữ ký của anh ta các chấm ngày. Ông đã nhận được những lời chỉ trích đáng kể trong sự nghiệp của mình cho các tác phẩm truyện tranh châm biếm của mình nhưng đã được nhớ đến như một nhà cách mạng của nghệ thuật thế kỷ 20. was an American artist who was a significant member of the POP Art movement. His work is widely recognized for its use of parody through mimicking mass media outputs. Specifically, he is associated with commercial, comic-strip style art and his signature use of Ben-Day dots. He received considerable criticism during his career for his satirical comic book pieces but has been posthumously remembered as a revolutionary of 20th-century art.

Whaam! (1963) & NBSP;

Whaam! Bởi Roy Lichtenstein, 1963, TateBy Roy Lichtenstein, 1963, Tate

Whaam! là một thành phần của hai bức tranh mô tả một máy bay chiến đấu đánh xuống một tên lửa khác với một tên lửa. Toàn bộ tác phẩm được thể hiện theo phong cách truyện tranh, với bảng màu giới hạn, chính và thiết kế màu khối. Nó cũng có các bong bóng từ truyện tranh đặc trưng và hiệu ứng âm thanh chữ cái khối. Tác phẩm được lấy cảm hứng từ một bộ truyện tranh từ DC Comics, những người đàn ông toàn Mỹ chiến tranh, được vẽ bởi Irv Novick và xuất bản năm 1962. & NBSP;is a composition of two canvases that portray one fighter plane striking down another with a missile. The entire piece is rendered in a comic-strip style, with a limited, primary color palette and a block color design. It also features characteristic comic word bubbles and block letter sound effects. The work was inspired by a comic strip from DC Comics’ All-American Men of War, drawn by Irv Novick and published in 1962. 

Cô gái chết đuối (1963)

Cô gái chết đuối của Roy Lichtenstein, 1963, MOMAby Roy Lichtenstein, 1963, MoMA

Cô gái chết đuối mô tả một phụ nữ trẻ bị chết đuối trong phong cách truyện tranh đặc trưng của Lichtenstein. Khuôn mặt cô là trung tâm của mảnh, được bao quanh bởi nước. Nó cũng có một bong bóng suy nghĩ với cụm từ, tôi không quan tâm! Tôi thay vì chìm - hơn là gọi Brad để được giúp đỡ! Cuộc đối thoại trong bảng điều khiển, rõ ràng rời khỏi phần còn lại của cốt truyện câu chuyện, thêm một yếu tố châm biếm vào tác phẩm. Nó được sao chép từ DC Comics, ‘Run for Love !, Từ loạt truyện tranh tình yêu bí mật. & NBSP;depicts a young woman drowning in Lichtenstein’s signature comic-strip style. Her face is central to the piece, surrounded by water. It also features a thought bubble with the phrase, “I DONT CARE! I’D RATHER SINK — THAN CALL BRAD FOR HELP!” The dialogue in the panel, clearly disjointed from the remainder of the story’s plot, adds an element of satire to the piece. It is copied from DC Comics’ ‘Run For Love!’ from the Secret Love comic book series. 

Keith Haring, nghệ thuật: Murals và hoạt động đường phố

Keith Haring là một nghệ sĩ người Mỹ gắn liền với phong trào nghệ thuật pop và được biết đến với nghệ thuật đường phố. Ông bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường chính trị của thành phố New York vào những năm 1980. Công việc của ông phản ánh điều này thông qua việc ông sử dụng hình ảnh tình dục và thường gây sốc để thúc đẩy hoạt động xã hội. Ông đã giải quyết một số chủ đề xã hội và chính trị vào thời điểm đó, bao gồm dịch bệnh AIDS và apartheid. Ông được coi là một nhà cách mạng, người đã sử dụng khả năng tiếp cận của nghệ thuật đường phố để truyền bá nhận thức về các vấn đề xã hội. was an American artist associated with the POP Art movement and known for his street art. He was strongly influenced by the political climate of New York City in the 1980s. His work reflects this through his use of sexual and often shocking imagery to spur social activism. He addressed several social and political topics at the time, including the AIDS epidemic and Apartheid. He is regarded as a revolutionary who used the accessibility of street art to spread awareness of social issues.

Crack Is Wack (1986)

Crack là Wack của Keith Haring, 1986, Thành phố New York, quảng cáoby Keith Haring, 1986, New York City, AD

Crack is Wack là một bức tranh tường đường phố nằm ở East 128th Street và Đại lộ 2 ở thành phố New York. Tác phẩm này là một phản ứng đối với dịch bệnh crack ở thành phố New York và phục vụ như một cảnh báo chống lại việc sử dụng ma túy. Nó có các chữ cái khối lớn, kiểu truyện tranh trong một đám mây khói rõ ràng. Một đám đông người hỗn loạn xuất hiện bên dưới các chữ cái. Họ bị lu mờ bởi một bộ xương giữ một đường ống và một hóa đơn đô la đang cháy, để thể hiện sự nguy hiểm của thuốc. Bức tranh tường ban đầu được thực hiện mà không có sự cho phép của thành phố nhưng sau đó được thành phố bảo vệ như một vật kỷ niệm của hoạt động chống ma túy.is a street mural located at East 128th Street and 2nd Avenue in New York City. The piece is a reaction to the crack epidemic in New York City and serves as a warning against drug use. It features large, comic-style block letters within an apparent cloud of smoke. A chaotic crowd of people appears below the letters. They are overshadowed by a skeleton holding a pipe and a burning dollar bill, to represent the danger of drugs. The mural was initially done without city permission but was subsequently protected by the city as a memento of anti-drug activism.

Những bức tranh của David Hockney: Nghệ thuật pop và chủ nghĩa hiện đại thế kỷ 20

David Hockney là một nghệ sĩ, nhiếp ảnh gia và người soạn thảo người Anh, người vẫn là một trong những người đóng góp quan trọng nhất cho phong trào nghệ thuật pop. Oeuvre của ông rất chiết trung, các phương tiện và các phong trào bao gồm vẽ tranh lập thể, cắt dán nhiếp ảnh, áp phích quảng cáo và tranh cảnh quan. Chính sự khác biệt này đã làm cho anh ta có ảnh hưởng lâu dài đến nghệ thuật thế kỷ 20. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã tương tác với nghệ sĩ biểu hiện Francis Bacon và cũng bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của biểu tượng chủ nghĩa lập thể Pablo Picasso và Ấn tượng hàng đầu Matisse. & NBSP; is a British artist, photographer and draftsman who remains one of the most important contributors to the POP Art movement. His oeuvre is very eclectic, spanning mediums and movements including cubist painting, photographic collage, advertisement posters and landscape paintings. It is this variation that has made him an enduring influence on 20th-century art. During his studies, he interacted with expressionist artist Francis Bacon and was also influenced by the work of Cubism icon Pablo Picasso and leading impressionist Henri Matisse. 

Một Splash lớn hơn (1967) & NBSP;

Một sự giật gân lớn hơn của David Hockney, 1967, Tateby David Hockney, 1967, Tate

Một văng lớn hơn miêu tả một bể bơi bên ngoài một ngôi nhà ở California. Đó là một khoảnh khắc ảnh chụp nhanh của một cú giật gân trong hồ bơi trực tiếp sau khi ai đó nhảy vào nó. Nó được lấy cảm hứng từ một bức ảnh trong một cuốn sách mà Hockney gặp phải về cách xây dựng các bể bơi. Bức tranh là một phần của một loạt mà Hockney sản xuất các bể bơi bên ngoài các ngôi nhà từ năm 1964 đến 1971. Bộ phim đại diện cho lối sống thoải mái hơn, thoải mái hơn mà Hockney trải nghiệm trong sự kết hợp với một người có nhịp độ nhanh, căng thẳng ở New York.portrays a swimming pool outside of a California home. It is a snapshot moment of a splash in the pool directly after someone jumped into it. It was inspired by a photograph in a book Hockney encountered on how to build swimming pools. The painting is part of a series that Hockney produced of swimming pools outside homes between 1964 and 1971. The series represents the more relaxed, Californian way of life that Hockney experienced in juxtaposition to the fast-paced, stressful one in New York.

Các nhà sưu tập người Mỹ (Fred và Marci Weisman; 1968)

Các nhà sưu tập người Mỹ (Fred và Marci Weisman) của David Hockney, 1968, Viện nghệ thuật Chicagoby David Hockney, 1968, Art Institute of Chicago

Các nhà sưu tập người Mỹ là một bức chân dung kép của cặp vợ chồng thu thập nghệ thuật Fred và Marci Weisman. Cặp đôi được hiển thị cạnh nhau, với Fred nhìn sang một bên và Marci hướng về phía trước. Chúng được đóng khung bởi hai bộ cửa trượt và được bao quanh bởi bốn đồ vật: ba tác phẩm điêu khắc nghệ thuật và một cái cây. Các mảnh đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa đối tượng và chủ thể, mang lại cho nó một chút hài hước mỉa mai. is a double portrait of art collector couple Fred and Marci Weisman. The pair is shown next to each other, with Fred looking to the side and Marci facing forward. They are framed by two sets of sliding doors and surrounded by four objects: three sculptural works of art and a tree. The piece questions the relationship between object and subject, giving it a slight edge of ironic humor.

Richard Hamilton: Genesis of Pop Art

Richard Hamilton là một nhà collagist và họa sĩ người Anh, người đã đóng góp sớm cho phong trào nghệ thuật pop. Công việc cắt dán của ông đặc biệt là vấn đề trong sự phát triển của nghệ thuật pop, lấy cảm hứng từ sự sống động của cuộc sống và sự hấp dẫn của sản xuất phương tiện truyền thông đại chúng. Ông đã cố vấn cho một số nghệ sĩ nổi tiếng trong những năm 1950 bao gồm David Hockney và Peter Blake, củng cố vị trí của ông như một người đóng góp hàng đầu cho chủ nghĩa hiện đại giữa thế kỷ 20. Ông cũng đã thiết kế bìa album White Beatles (1968).Peter Blake, cementing his place as a leading contributor to mid-20th-century modernism. He also designed the cover of the Beatles’ White Album (1968).

Điều gì làm cho những ngôi nhà ngày nay trở nên khác biệt, rất hấp dẫn? (1956)


Điều gì làm cho những ngôi nhà ngày nay trở nên khác biệt, rất hấp dẫn? bởi Richard Hamilton, 1956, Kunsthalle Tübingenby Richard Hamilton, 1956, Kunsthalle Tübingen

Điều gì làm cho những ngôi nhà ngày nay trở nên khác biệt, rất hấp dẫn? được coi là tác phẩm nổi bật đầu tiên của phong trào nghệ thuật pop. Đó là một ảnh ghép mô tả nội thất của một ngôi nhà được hình thành bởi các đường cắt từ các tạp chí. Nó bao gồm Adam và Eva đương đại, được bao quanh bởi nhiều yếu tố của chủ nghĩa tiêu dùng sau chiến tranh và văn hóa truyền thông đại chúng. Nó có một lượng đáng kể sự hài hước mỉa mai, bao gồm Adam bao phủ bộ phận sinh dục của mình bằng một cây kẹo mút lớn hơn là lá sung truyền thống. Sự hài hước này nhại lại chủ nghĩa tiêu dùng của sự bùng nổ công nghiệp và quảng cáo giữa thế kỷ 20.is considered the first prominent work of the POP Art movement. It is a collage depicting the interior of a home formed by cutouts from magazines. It includes contemporary Adam and Eve, surrounded by numerous elements of postwar consumerism and mass media culture. It features a considerable amount of ironic humor, including Adam covering his genitals with a massive lollipop rather than the traditional fig leaf. This humor parodies the consumerism of the mid-20th-century industrial and advertising boom.

Nghệ thuật pop nghệ thuật Claes Oldenburg: Điêu khắc và các đối tượng hàng ngày & NBSP;

Claes Oldenburg là một nhà điêu khắc người Mỹ gốc Thụy Điển, người được biết đến với các bản sao của các đối tượng phổ biến. Ông đã trích dẫn rằng nghệ thuật của mình là một cách đáng chú ý là không có ý nghĩa, trong đó cho phép người xem có những diễn giải của họ về nó. Tác phẩm trước đây của ông tập trung vào các đồ vật hàng ngày điêu khắc mềm, phát triển thành các đại diện thực tế hơn. Ông đã sản xuất một số tác phẩm hợp tác với vợ, Coosje Van Bruggen cho đến khi bà qua đời vào năm 2009. & NBSP; & NBSP;Coosje van Bruggen until she died in 2009.  

Trường hợp bánh ngọt, tôi của Claes Oldenburg, 1961-62, MOMAby Claes Oldenburg, 1961-62, MoMA

Vỏ bánh ngọt, tôi là một tác phẩm điêu khắc bản sao của một hộp trưng bày đầy thức ăn. Nó được làm từ muslin, nhựa và men. Trong trường hợp hiển thị là một chiếc bánh, một giá của sườn, một quả táo caramel, một chuối chuối và nhiều món tráng miệng khác. Nó vừa ngon miệng vừa phản cảm, nhấn mạnh sự kết hợp giữa các sản phẩm và sự giả dối rõ ràng của quảng cáo. Oldenburg nhãn những kỳ vọng bực bội này, vì các đối tượng trong trường hợp không thể được tiêu thụ. & NBSP;is a replica sculpture of a display case full of food. It is made from muslin, plastic and enamel. Within the display case are a cake, a rack of ribs, a bitten caramel apple, a banana split and various other desserts. It is both appetizing and repulsive, emphasizing the juxtaposition between products and the obvious falsity of advertisements. Oldenburg labels these ‘frustrating expectations,’ as the objects in the case cannot be consumed. 

Một số nghệ sĩ nghệ thuật pop nổi tiếng là ai?

Ai là nghệ sĩ nghệ thuật nhạc pop nổi tiếng nhất của Mỹ?

  • Andy Warhol. Andy Warhol là một nghệ sĩ nhạc pop người Mỹ nổi tiếng với các bản in và tranh về hàng tiêu dùng, người nổi tiếng và thảm họa chụp ảnh.
  • Roy Lichtenstein.
  • James Rosenquist.
  • Claes Oldenburg.
  • Eduardo Paolozzi.
  • Chị Corita Kent.
  • Richard Hamilton.
  • Tom Wesselmann.

Ai là nghệ sĩ nhạc pop nổi tiếng nhất?

Ca sĩ chính của ban nhạc Maroon 5, là một trong những ngôi sao nhạc pop nổi tiếng nhất của thời đại chúng ta. Maroon 5 đã đứng đầu các ban nhạc pop kể từ khi họ bắt đầu vào đầu những năm 2000. Những bài hát như những cô gái như bạn, người chơi điện thoại, và những kỷ niệm của người Hồi giáo đang nghiền nát nó ngay cả ngày hôm nay, và để nói về người đàn ông đằng sau giọng nói, tài năng của anh ấy có quá nhiều thứ để diễn tả.

Một số nghệ sĩ nhạc pop nổi tiếng là ai?

40 nghệ sĩ nhạc pop hàng đầu mọi thời đại

  • Các chàng trai bãi biển. The Beach Boys là nhóm hàng đầu thu âm đầu những năm 1960, với những bản hit lớn như "Surfin 'USA".
  • Stevie thắc mắc. Stevie Wonder nổi lên vào đầu những năm 1960 như một ngôi sao nhí sớm phát triển với một trong những bản hit sống truyền nhiễm nhất từng được ghi lại, "Fingerertips - Pt. ...
  • Michael Jackson. ...
  • Những hòn đá lăn. ...
  • Barbra Streisand. ...
  • Miễn cước Sinatra. ...
  • Madonna. ...

Tên của một số nghệ sĩ nhạc pop là gì?

  • Earl Stacy
  • Đông 17
  • Eiffel 65
  • Sophie Ellis-Bextor
  • Đế chế mặt trời
  • Jocelyn Enriquez
  • Gloria Estefan
  • Mọi thứ mọi thứ
  • Phơi ra

Ai là nghệ sĩ nghệ thuật pop giỏi nhất?

Andy Warhol - Beacon tiên phong của nghệ thuật pop tất nhiên, không thể có cuộc thảo luận nghệ thuật pop mà không bao gồm một trong những nghệ sĩ nổi tiếng và nổi tiếng nhất thời bấy giờ, Andy Warhol.Siêu sao của nghệ thuật pop, Warhol đã đột nhập vào sự nổi tiếng trên toàn thế giới với lon súp Campbell đã được huyền thoại của mình và Gold Marilyn Monroe. – Pioneering Beacon of Pop Art Of course, there can be no Pop Art discussion without inclusion of one of the most prolific and popular artists of his time, Andy Warhol. The superstar of Pop Art, Warhol broke into worldwide fame with his already legendary Campbell's Soup Cans and Gold Marilyn Monroe.

3 nghệ sĩ nhạc pop nổi tiếng là gì?

1937).Trong nghệ thuật Mỹ, các số mũ nổi tiếng của nghệ thuật pop bao gồm Robert Rauschenberg (1925-2008), Jasper Johns (sinh năm 1930), Roy Lichtenstein (1923-97) và Andy Warhol (1928-87).

Ai nổi tiếng vì làm nghệ thuật pop?

Các nghệ sĩ nghệ thuật pop như Andy Warhol, Roy Lichtenstein và Richard Hamilton được biết đến với việc sử dụng văn hóa và phương tiện truyền thông phổ biến để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất của họ.Hãy xem!Pop Art là một phong trào phát triển vào giữa thế kỷ 20.Andy Warhol, Roy Lichtenstein and Richard Hamilton were known for their use of popular culture and media to create their most famous artworks. Take a look! POP Art was a movement that developed in the mid-20th century.

Ai là lãnh đạo của nghệ thuật pop?

4 - Andy Warhol, Lãnh đạo nghệ thuật pop.Andy Warhol, leader of Pop Art.