Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ năm 1975 1986

Những bài học chủ yếu của Đảng thời kỳ 1975 – 1986. Liên hệ nội dung việc thực hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay tại địa phương nơi công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.48 KB, 3 trang )

Câu 2: Đ/c hãy trình bày những bài học chủ yếu của Đảng thời kỳ 1975 –
1986. Liên hệ nội dung việc thực hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay tại địa phương nơi công tác?
1. Đặt vấn đề
Một trong những vấn đề quan trọng quyết định đến vận mệnh của dân tộc
- đó là tư duy nhận thức của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, hoạt
động nhận thức (tư duy) của Đảng có vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng và có
những thành tựu nổi bật và độc đáo trong tư duy về con đường cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta hình
dung ngay từ khi thành lập Đảng. Đó là con đường sau khi đã hoàn thành cuộc
cách mạng điền địa và phản đế, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát
triển tư bản chủ nghĩa. Đảng đã bước đầu chuẩn bị cho những năm cuối của
cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng phải đến năm 1954, sau khi miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng, vấn đề quá độ mới thực sự được đặt ra. Đảng dứt
khoát khẳng định miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ và mặc nhiên thừa nhận
những quy luật của cuộc cách mạng theo các mô hình chung lúc đó.
Nhà nước chuyên chính vô sản trên nền tảng kinh tế của chế độ công hữu dưới
hai hình thức: toàn dân và tập thể, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành
các cuộc cải biến về văn hoá - tư tưởng nhằm thiết lập hình thái kinh tế - xã hội
xã hội chủ nghĩa. Từ 1976, Đảng có chủ trương kết thúc thời kỳ quá độ sau kế
hoạch 5 năm. Có thể nói, với công thức chuyên chính vô sản - chế dộ làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà Đại hội IV đề
ra những quan niệm về “chủ nghĩa xã hội - Nhà nước” đã đạt đến nhận thức cao
nhất vượt qua những điều kiện thực tiễn đất nước.
2. Nội dung
2.1. Lý luận
Đại hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về các văn kiện như: Báo
cáo chính trị; Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1986 1990; Báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng. Đại hội đã đánh giá những thành tựu
những khó khăn của Việt Nam do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra.
Những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của nhũng sai lầm đó,


đặc biệt sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động
đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh hướng trong
buông lỏng quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối
nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Trong báo
cáo chính trị tại Đại hội đã nêu ra bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải quán triệt tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Ba là phải kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện
mới.


Bốn là phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vujchisnh trị của một đảng
cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng XHCN.
2.2. Liên hệ
Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Người, để thực sự “lấy dân làm gốc”, chúng ta cần: Một là, tôn trọng và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; hai là, làm tốt công tác dân vận và ba là,
nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng. Trong điều
kiện hiện nay, phát huy quyền làm chủ của nhân dân được coi là một biểu hiện
tập trung của tư tưởng “lấy dân làm gốc”, là một yếu tố bảo đảm sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Để thực sự “dân là gốc của nước” thì Nhà nước cần
thực hiện cho được 4 mục tiêu: “Làm cho dân có ăn - Làm cho dân có mặc Làm cho dân có chỗ ở - Làm cho dân có học hành”. Ngay từ khi chính quyền
cách mạng mới thành lập, Đảng ủy xã Huy Giáp đã vận dụng sách lược của
Đảng mưu trí và khôn khéo đấu tranh chống phản cách mạng, kịp thời đập tan
âm mưu hiểm độc của địch, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân. Đẩy
mạnh công tác chỉ đạo trong phát triển kinh tế xã hội góp phần nâng cao đời
sống cho nhân dân, hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương luôn đảm
bảo phục vụ nhân dân vô điều kiện, kính trọng nhân dân, tin yêu nhân dân, tích


cực chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng nhân dân, quan tâm
đến quyền lợi, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, thực sự là “đầy tớ trung thành
của nhân dân”; không quan liêu, mệnh lệnh, hống hách với nhân dân. Thường
xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức, giáo dục cho quần chúng hiểu
được việc giữ gìn trật tự, an ninh là nhiệm vụ của mỗi người, mỗi nhà, nó liên
quan trực tiếp tới “lợi ích bản thân của mọi người” để quần chúng có ý thức
đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ về an ninh trật tự. Cụ thể trong
năm 2016 Đảng ủy xã đã chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả cuộc vận động
tập trung phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc; qua cuộc triển khai số vụ vi phạm về trật tự đã giảm đáng kể, nhận
thức của nhân dân cũng được nâng cao. Đồng thời nhờ việc tố giác tội phạm của
quần chúng nhân dân, chính quyền xã đã chủ động và kịp thời phát hiện và đấu
tranh chống lại những hoạt động phá hoại và những luận điệu phản tuyên truyền,
chiến tranh tâm lý của địch.
* Nguyên nhân đạt được
Để có được những thành tựu nổi bật trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát
sao của cấp ủy đảng chính quyền địa phương, mục tiêu quan điểm phát triển
kinh tế và bảo vệ chính quyền xuất phát điểm từ tinh hình thực tiễn của nhân
dân. Nhân dân các dân tộc luôn phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của mình,
luôn đoàn kết phấn đấu vì mục tiêu bảo vệ vững chắc nền chính trị của địa
phương và không ngừng phấn đấu phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống
của nhân dân.
* Tồn tại hạn chế
Vận dụng tư tưởng lấy dân làm gốc trong công tác xây dựng Đảng tại địa
phương tuy có nhiều thành quả nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Năng
lực và hiệu quả lãnh đạo của đảng, hiệu lực quản lý và điều hành của chính
quyền, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của


tình hình mới hiện nay. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính trong


hệ thống chính quyền đạt hiệu quả còn thấp. Một số ít nơi việc thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân còn hạn chế, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không
nghiêm còn nhiều biểu hiện quan liêu, chưa tôn trọng. Năng lực và phẩm chất
của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ; không ít cán bộ
đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức
chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu. Chế độ tiền lương bất
hợp lí, bộ phận người lao động, nông dân gặp khó khăn.
* Nguyên nhận hạn chế
Do trình độ năng lực và chuyên môn nghiệp vụ chưa phù hợp với chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn được giao, quản lý điều hành của chính quyền địa
phương còn cứng nhắc về nguyên tắc, không phát huy được tính linh động sáng
tạo từ đó làm hạn chế tính phong phú chủ động của bộ phận tham mưu gây ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động của bộ máy. Quyền lam chủ của nhân dân chưa
thực sự được phát huy một cách tối đa và thường xuyên liên tục. Chế độ chính
sách đối với cán bộ, công chức chưa tương xứng với nhiệm vụ đượ giao.
* Giải pháp
Đẩy mạnh nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng đặc
biệt là đội ngũ cán bộ đảng viên ở cấp thôn xóm. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ công chức chuyên môn; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở mọi lúc mọi nơi, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được
tham gia quản lý hành chính nhà nước. Đẩy manh công tác cải cách hành chính,
chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức. Áp dụng các biện pháp phù hợp với
tình hình thực tiễn của địa phương đề hoạch định đường lối phát triển kinh tế xã
hội nâng cao đời sống cho nhân dân.
3. Kết luận
Đẩy mạnh CNH – HĐH; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; Xây dựng nền dân chủ XHCN; Thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ; Do
nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; Tích cực và chủ động hội nhập kinh


tế quốc tế vì hòa bình, độc lập , hợp tác và phát triển. Trong quá trình đổi mới
Đảng biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, chắt lọc, tổng kết, khái quát, từ đó có
những quyết sách đúng đắn, những chủ trương phù hợp. Xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân. Bởi
vì nhân dân ta có hàng chục triệu người có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay
chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong mấy mươi vạn con mắt
soi sáng, mấy mươi vạn lỗ tai nghe ngóng thì bọn gian phi, côn đồ sẽ lộ mặt ra
và sẽ phải cải tà quy chính dưới lực lượng to lớn của quần chúng.



Đổi mới năm 1986: Bài học từ đổi mới tư duy của Đảng

Quyết định Đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ năm 1975 1986
Người dân xếp hàng mua đồ thời bao cấp.

Sau hơn 34 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng 6, dù phải trải qua nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã có những bước phát triển trên tất cả các lĩnh vực; đời sống nhân dân được cải thiện, nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới.

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, ôn lại một chặng đường lịch sử, một cột mốc đánh dấu đổi mới trong tư duy, phương thức lãnh đạo của Đảng để rút ra những bài học thực tiễn luôn luôn cần thiết trong bất kỳ giai đoạn nào của cách mạng Việt Nam.

Đã 34 năm trôi qua nhưng đến nay nhiều người vẫn còn giữ những tờ tem phiếu, sổ gạo ngả màu ố vàng như để nhắc về quãng thời gian mà người ta quen gọi là “thời bao cấp”. Thời kỳ đó, người ta thèm cả bát cơm trắng và đủ thứ: chiếc bút trơn tru, tờ giấy trắng, chiếc lốp xe chưa vá, chiếc xích xe còn mới... Nhắc lại như vậy là để khẳng định: với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng khách quan, Đảng ta đã có quyết định mang tính cách mạng, đột phá về thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện, sâu sắc, coi đó là “mệnh lệnh của cuộc sống”.

Ông Nguyễn Văn Bình, quận Cầu Giấy, Hà Nội nhớ lại:“Thời bao cấp là thời điểm lịch sử. Ai cũng phải lao động sản xuất tạo ra sản phẩm. Thời bao cấp không được luân chuyển, lưu chuyển, hạn chế rất nhiều. Chính vì thế xóa bỏ bao cấp đáp ứng được đời sống lao động của nhân dân”.

Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Chúng ta bị các nước bao vây cấm vận. Liên Xô và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé. Trước tình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát thực tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới tư duy về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phải có cơ chế tự hoặch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.

Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.

Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, đây là những bước ngoặt lớn trong tư duy lãnh đạo. Chính đổi mới đã khơi dậy sức mạnh toàn dân, giải phóng sức lao động và đưa đến những thành công như hôm nay.

Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ năm 1975 1986
Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu và vị thế được nâng cao
“Đây là mốc lớn đánh dấu việc chính thức đổi mới của Đảng ta. Tôi nói chính thức bởi vì trước đó đã có những bước đổi mới từng phần, tổng kết từ trước đó cho đến Đại hội 6 vào tháng 12 năm 1986 Đảng có báo cáo chính trị, Nghị quyết Đại hội chính thức để ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Mốc Đại hội 6 cực kỳ quan trọng, nhìn thẳng vào sự thật nói rõ sự thật, nói đúng sự thật và nhấn xoáy vào điểm là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy khó lắm, tức là đổi mới cái đầu của mình. Tư duy ở đây trước hết là tư duy về kinh tế. Đảng ta đang đi đúng trọng tâm của nó”- GSTS Mạch Quang Thắng cho biết.

Đổi mới ở nước ta xuất phát từ sự năng động của nhân dân, mà bắt đầu là từ thực tế của gần 100 cuộc “phá rào” kinh tế trước đó. Tiêu biểu như chính sách khoán của Vĩnh Phúc tạo điều kiện cho nông dân làm chủ trên đồng ruộng của mình; là mô hình phân phối thu mua ở Long An theo giá thoả thuận, hay sự bung ra của thành phố Hồ Chí Minh với việc thương nhân đứng ra thu gom những mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với nước ngoài…

Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thì không ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của Ðảng là người khởi xướng và lãnh đạo đổi mới, nhưng nếu nói đổi mới là công việc của riêng cán bộ, đảng viên mà không phải là của nhân dân ta thì dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể thành công. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Ðảng.

Hơn 30 năm qua, sự nghiệp đổi mới đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng (tháng 1 năm 2016) đánh giá: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Đổi mới là một quá trình cách mạng. Quá trình đó đã diễn ra trên đất nước ta từ năm 1986 và vẫn tiếp diễn. Đảng viên và nhân dân tin tưởng ở Đại hội 13 của Đảng sắp tới sẽ tạo ra động lực mới để phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, nhắc lại dấu son Đại hội 6 của Đảng và những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử” qua 34 năm đổi mới để càng vững tin và kiên định vào con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn./.

Theo vov.vn

Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII

Những bài học quý của 30 năm đổi mới

Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ năm 1975 1986
Bài học kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ năm 1975 1986

Cập nhật: 15:34 31-12-2015

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII đã nhận định, nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, 20 năm đầu (1986 – 2006), nước ta thực sự đã đạt được những thành tựu to lớn; còn 10 năm sau (2006 – 2015), dù trải qua nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng suy giảm, nhưng đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học:

Thứ nhất, bài học về sự kiên định.

Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Đổi mới là sự thay đổi về phương thức, cách thức, phương tiện… phát triển đất nước nhưng không phải từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Tức là, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Trước mắt, mục tiêu của Đảng và nhân dân ta hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến” thì mục tiêu này chính là cái “bất biến” mà không ai có thể từ bỏ.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. “Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, không dao động trong bất cứ tình huống nào”(1).

Hai là, bài học về “dân làm gốc”.

Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” luôn là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng. Nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng nên mọi mục tiêu của Đảng đều vì nhân dân và luôn đặt nhân dân vào vị trí người thực hiện là người thụ hưởng từ các chủ trương của Đảng. Trong 30 năm qua, với chủ trương đổi mới, với sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, sự chung sức đồng lòng của toàn dân tộc, đời sống của nhân dân đã thay đổi về mọi mặt. Dân ngày càng giàu thì nước ngày càng mạnh; nước càng mạnh thì càng tác động để dân càng giàu hơn. Do đó, phải luôn chú trọng lắng nghe dân, gần dân, trọng dân, thực hành dân chủ rộng rãi, bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. “Đảng phải trực tiếp trả lời câu hỏi “Nhân dân đang muốn gì?”, để từ đó đề ra các chủ trương, đường lối cho đúng, cho sát và phù hợp với nhân dân. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta từng bước phấn đấu chỉ có thể thành công khi Đảng, Nhà nước mãi mãi lấy “Dân làm gốc”, phát huy tốt sức mạnh to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thường xuyên gắn kết chặt chẽ “Lòng Dân, ý Đảng” trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đất nước”(2).

Ba là, bài học về “đổi mới”.

Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Phải không ngừng đổi mới, trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội… trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, như đổi mới nhưng phải bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phải giữ cho được vai trò lãnh đạo của Đảng, phải đổi mới từ tư duy… Đồng thời, phải đổi mới thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng, không có giới hạn, sao cho không ngừng nâng cao chất lượng sống của người dân, không ngừng phát triển đất nước về mọi mặt. Không được đổi mới “nửa vời”, tức là chỉ đổi mới trên một số lĩnh vực, chỉ đổi mới về hình thức hay chỉ đổi mới trên các khẩu hiệu mà không đổi mới ở các hoạt động thực tiễn…

Để đổi mới thành công, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp. “Đây là bài học về nghệ thuật tiến hành đổi mới. Thực chất của nó là bài học về phối hợp chính sách và kết hợp tối ưu giữa các lợi ích ngắn hạn, cục bộ với các lợi ích dài hạn và toàn thể, tìm tòi các bước đi, hình thức và cách làm thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn cho thấy đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, nó phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả mọi lĩnh vực. Logic khách quan đó đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp đổi mới trên cơ sở sự nhất quán của đường lối đổi mới và của quyết tâm phát triển”(3).

Bốn là, bài học về yêu cầu phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết.

Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng và trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế phức tạp, nhiều chiều hiện nay, các lợi ích thường đan xen nhau, đồng thời các quan hệ cũng dễ bị tác động, có thể làm ảnh hưởng đến cán cân một số quan hệ. Vì vậy, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” cần được áp dụng triệt để, trong đó “bất biến” là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Việc chủ động hội nhập quốc tế cũng là cách để không những Việt Nam tránh bị hòa tan, bị tác động tiêu cực của quá trình hội nhập.

Bên cạnh đó, “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không phải là bỏ qua chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc. Cần xác định rõ rằng, ngày nay, mọi việc làm vì tiến bộ và phát triển chung của nhân loại đều làm cho nhân loại tiến gần hơn đến chủ nghĩa xã hội. Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết đồng thời với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mong muốn là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế vì độc lập, hòa bình và tiến bộ là làm tốt nghĩa vụ quốc tế của dân tộc Việt Nam”. Đồng thời, “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết cần có những biện pháp rõ ràng và kiên quyết để đấu tranh với “lợi ích nhóm”, một tệ nạn đang vận động rất phức tạp, là yếu tố hàng đầu đe dọa đến sự đoàn kết thống nhất của dân tộc, mục tiêu cao nhất của đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết hiện nay”(4).

Năm là, bài học về xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.

Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Yêu cầu về “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt” vẫn luôn là một đòi hỏi phù hợp thực tiễn. Xây dựng Đảng là để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và sức chiến đấu để lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là để cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, triển khai thực hiện trong thực tế, đồng thời từ đó tổng kết thực tiễn để ngày càng hoàn thiện hơn đường lối lãnh đạo. Do đó, nếu lơ là công tác xây dựng Đảng, ít chú trọng công tác xây dựng hệ thống chính trị thì năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị sẽ không được phát huy. “Ở Việt Nam, đòi hỏi phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, hệ thống chính trị phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện”(5).

Tóm lại, 5 bài học quý của 30 năm đổi mới cần được nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong thực tiễn cách mạng hiện nay, ở từng tổ chức đảng, từng đảng viên trong điều kiện cụ thể của mình.

-------------------------------

(1) GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong tình hình hiện nay, Báo điện tử Đảng Cộng sản, ngày 21-10-2011.

(2) Nguyễn Thế Trung, Về “Lòng Dân, ý Đảng” trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 5-2015.

(3) Trần Đức Lương, Đổi mới: sự lựa chọn cách mạng nhằm mục tiêu phát triển của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 7-2001.

(4) PGS.TS. Ngô Văn Thạo, Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết!, Báo điện tử Đảng Cộng sản, ngày 2-10-2015.

(5) PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 9-2013.

MINH TÂM