Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ ngày tháng Nam nào

Hôm qua 11-12, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và Tỉnh ủy BR-VT  tổ chức Hội thảo “50 năm Chiến dịch Bình Giã, thắng lợi và bài học lịch sử”. Tham dự Hội thảo có: Đại tướng Lê Văn Dũng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; Trung tướng Trần Đơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7; ông Nguyễn Tuấn Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy BR-VT; ông Huỳnh Văn Tý, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận; ông Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh BR-VT; ông Nguyễn Văn Trình, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT và 200 đại biểu là lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Quân khu 7, các tướng lĩnh, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự, nhân chứng lịch sử… Hội thảo đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn bối cảnh, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của Chiến thắng Bình Giã.

Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ ngày tháng Nam nào
Các ông Nguyễn Tuấn Minh, Bí thư Tỉnh ủy (thứ hai từ phải qua); Nguyễn Văn Trình, Chủ tịch UBND tỉnh (giữa) cùng các đại biểu trao đổi bên lề hội thảo.

Bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến trường

Là người trực tiếp tham gia Chiến dịch Bình Giã, Đại tướng Lê Văn Dũng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, cho rằng: Việc mở Chiến dịch Bình Giã là quyết định sáng suốt của ta. Đây là chiến dịch tổng hợp, tấn công địch bằng sức mạnh quân sự và chính trị, kết hợp cả quân chủ lực giải phóng với bộ đội địa phương, du kích. Mặc dù địch có sức mạnh vượt trội về vũ khí trang bị và lực lượng nhưng bằng chiến thuật hợp lý, sự chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Bình Giã vang dội. Chiến thắng này đã góp phần quan trọng làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của địch, tạo ra bước ngoặt quyết định làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta.

Trong tham luận gửi đến Hội thảo, Thượng tướng Nguyễn Thành Cung, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, khẳng định: Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, có biết bao địa danh gắn liền với các trận đánh đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ người Việt Nam. Chiến dịch Bình Giã cách đây 50 năm là một trong số đó. Mặc dù là chiến dịch quân sự đầu tiên của quân giải phóng miền Nam nhưng ta đã đánh bại các thủ đoạn chiến thuật tân kỳ của địch như “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận”, phá vỡ từng mảng của “ấp chiến lược” mà Mỹ, ngụy đã dày công xây dựng. Chiến thắng này đã chứng minh cho tính đúng đắn về đường lối Cách mạng miền Nam của Đảng; chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến; tạo bước ngoặt trên chiến trường theo chiều hướng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Bên cạnh đó, Chiến thắng Bình Giã còn có ý nghĩa chính trị to lớn ở trong và ngoài nước. Nó tăng thêm niềm tin tất thắng của toàn dân, toàn quân ta, từ đó tiếp tục vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vào ngày 30-4-1975.

Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ ngày tháng Nam nào
Máy bay Mỹ bị ta bắn rơi trong Chiến dịch Bình Gĩa. Ảnh: TƯ LIỆU

Khẳng định vai trò của nhân dân

Theo ông Võ Ngọc Minh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, trong Chiến dịch Bình Giã, nhân dân BR-VT đã ra sức đóng góp sức người, sức của phục vụ chiến dịch. Trong suốt chiến dịch, nhân dân trong tỉnh đã góp phần quan trọng bảo đảm lương thực, thực phẩm, y tế, giao thông, liên lạc, dẫn dường, chuẩn bị địa bàn ém quân cho bộ đội... Trong đó, xã Long Điền (nay là thị trấn Long Điền) đã huy động hơn 250 lượt dân công tải đạn; nhân dân Ngãi Giao đã đóng góp và tổ chức thu mua hàng chục tấn gạo, thuốc men cho chiến dịch; phụ nữ Long Phước tham gia 4 đợt dân công (mỗi đợt 300 người) phục vụ chiến dịch…

Là người trực tiếp tham gia Chiến dịch Bình Giã, ông Lê Minh Việt, nguyên Chủ nhiệm Chính trị tỉnh Bà Rịa - Long Khánh nhận định, thực tiễn sinh động của Chiến dịch Bình Giã đã đưa ra một mô hình của thế trận “chiến tranh nhân dân” và khẳng định tính phù hợp lịch sử của mô hình ấy. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta.

Thiếu tướng Nguyễn Nam Hưng, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 800 (Quân khu 7) cho rằng, Chiến thắng Bình Giã là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự chiến đấu ngoan cường, anh dũng của cán bộ, chiến sĩ và sự đùm bọc, cưu mang của nhân dân. Trong đó, vai trò nhân dân có ý nghĩa quan trọng.

Kết thúc chiến dịch Bình Giã, ta tiêu diệt gọn Tiểu đoàn thủy quân lục chiến 4, Tiểu đoàn biệt động quân 33 và Chi đoàn xe cơ giới M113 của địch; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội; bắn rơi, phá hủy 56 máy bay, 45 xe quân sự; tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.700 quân địch; thu hơn 1.000 khẩu súng các loại và gần 100 máy thông tin. Qua chiến dịch, ta phá banh, phá rã nhiều “ấp chiến lược”, cơ bản giải phóng vùng nông thôn các huyện Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc và một phần huyện Xuân Lộc. Nhờ vậy, căn cứ kháng chiến của ta được mở rộng từ Châu Pha, Hắc Dịch nối liền với chiến khu D.

Xây dựng BR-VT thành khu vực phòng thủ vững mạnh

Từng có nhiều năm công tác trong lực lượng vũ trang tỉnh, Đại tá Lê Văn Hiên, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh cho rằng, bài học kinh nghiệm từ Chiến thắng Bình Giã 50 năm trước có ý nghĩa to lớn trong xây dựng khu vực phòng thủ của tỉnh BR-VT hiện nay. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, BR-VT có vị trí chiến lược. Do vậy, việc xây dựng tỉnh trở thành khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xây dựng tiềm lực tổng hợp của khu vực phòng thủ tỉnh trong tình hình mới là xây dựng toàn diện về cả chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, củng cố quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.

Theo Thượng tá Phạm Phú Ý, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, từ Chiến thắng Bình Giã giúp địa phương rút ra nhiều bài học trong xây dựng khu vực phòng thủ trong tình hình mới. Đó là vai trò lãnh đạo của Đảng; sự phối hợp tác chiến, hiệp đồng sáng tạo giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương; công tác bảo đảm hậu cần tại chỗ; phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân; giáo dục tình yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ…

BÙI CẢNH

ÔNG NGUYỄN TUẤN MINH, ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, BÍ THƯ TỈNH ỦY:

Tinh thần Chiến thắng Bình Giã luôn gần gũi trong mỗi phong trào hành động cách mạng

Chiến thắng Bình Giã đã làm cho chiến tranh đặc biệt của địch thất bại, buộc đế quốc Mỹ phải vội vàng đưa quân Mỹ và chư hầu vào chiến trường miền Nam để giúp quân ngụy, mở ra chiến tranh cục bộ hòng cứu vãn tình hình. Trong Chiến dịch Bình Giã, lần đầu tiên ta đánh địch bằng quân chủ lực tập trung, đánh điểm, diệt viện. Chỉ trong thời gian ngắn của chiến dịch, dù phải chiến đấu, đương đầu với ngụy quân được trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện và sau lưng chúng là máy bay Mỹ và cố vấn Mỹ, nhưng quân ta vẫn giành chiến thắng vang dội.

Chiến thắng Bình Giã vừa thể hiện chủ trương đúng đắn của lãnh đạo Trung ương Cục và Quân ủy Miền, vừa thể hiện quyết tâm rất cao của toàn thể cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong tỉnh. Đồng chí và đồng bào ta đã khắc phục vô vàn khó khăn để bảo đảm hậu cần, lương thực, vũ khí, quân y… cho một chiến dịch dài ngày, trên một địa bàn xa xôi hẻo lánh, trong điều kiện đi lại khó khăn, lại phải bảo đảm bí mật, bất ngờ cho chiến dịch.

Tuy Chiến dịch Bình Giã đã diễn ra cách đây 50 năm nhưng tinh thần Chiến thắng Bình Giã vẫn luôn gần gũi và ở ngay trong mỗi con người chúng ta, trong mỗi phong trào hành động cách mạng và trong mỗi bước chuyển mình của tỉnh BR-VT.

QPTD -Thứ Hai, 19/10/2015, 07:54 (GMT+7)

Chiến thắng Bình Giã - bước phát triển của chiến tranh cách mạng miền Nam

Khi đề cập đến chiến thắng Bình Giã, cố Đại tướng Hoàng Văn Thái, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đánh giá đây là “… một chiến dịch quy mô nhỏ nhưng có ý nghĩa chiến lược, mở đầu thời kỳ mới của chiến tranh cách mạng miền Nam”1.

Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ ngày tháng Nam nào

Tượng đài Chiến Thắng Bình Giã tại thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức
(Ảnh: baobariavungtau.com.vn)

Trong chiến tranh, Bình Giã thuộc tỉnh Bà Rịa, là địa bàn có nhiều tuyến giao thông thủy, bộ; địch bố trí nhiều căn cứ chiến đấu. Giữa năm 1964, Mỹ - ngụy thiết lập Đặc khu Phước Biên (gồm tỉnh Bà Rịa và Biên Hòa), trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3. Ngoài lực lượng vệ binh, địch còn tăng cường 01 tiểu đoàn biệt động quân (bố trí ở Phú Mỹ), 01 chi đội cơ giới (ở Phước Lễ - Bà Rịa), 02 trung đội pháo 105 mm. Lực lượng cơ động của Quân đoàn 3 ngụy, gồm: 03 tiểu đoàn biệt động quân. Tiểu đoàn bộ binh 3 và Tiểu đoàn thủy quân lục chiến, lữ đoàn dù và Trung đoàn cơ giới số 1 (M.113). Đây cũng là lực lượng trực tiếp chi viện, ứng cứu cho đặc khu Phước Biên.

Về phía ta, lực lượng tham gia Chiến dịch, gồm: 02 tiểu đoàn chủ lực của Quân khu 7, 01 tiểu đoàn chủ lực của Quân khu 6, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện và du kích các xã trên địa bàn Chiến dịch. Phương châm chiến dịch: kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, tích cực tiêu diệt địch, hỗ trợ cho nhân dân phá “ấp chiến lược”, mở rộng vùng giải phóng. Phương thức tác chiến chiến dịch: đánh điểm diệt viện, đánh địch ngoài công sự là chính. Để trực tiếp chỉ huy và điều hành chiến dịch, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức Bộ Chỉ huy tiền phương bên cạnh Ban Chỉ huy chiến dịch.

Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ đêm 02-12-1964 đến ngày 03-01-1965, chia làm hai đợt: đợt 1 từ đêm 02-12 đến ngày 17-12-1964; đợt 2 từ đêm 27-12-1964 đến chiều 03-01-1965. Chiến dịch Bình Giã kết thúc thắng lợi, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên, bắt gần 300 tên, diệt gọn 02 tiểu đoàn chủ lực, 01 chi đoàn xe bọc thép và nhiều đại đội bảo an; phá hỏng 45 xe quân sự, phần lớn là xe M.113; bắn rơi, bắn hỏng 56 máy bay (chủ yếu là máy bay trực thăng), thu khoảng 1.000 súng các loại và 100 máy thông tin. Chiến dịch Bình Giã thắng lợi vượt ra ngoài phạm vi chiến dịch, có ý nghĩa về chiến lược. Thắng lợi đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có một số nguyên nhân quan trọng, cũng là những bài học sâu sắc, nổi bật là: hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; chuẩn bị hậu cần, kỹ thuật; vận dụng cách đánh độc đáo, sáng tạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Đây là chiến dịch tiến công đánh lớn, đánh mạnh và đánh sâu vào hậu cứ của địch, có ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng miền Nam. Vì thế, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo các đơn vị tham gia Chiến dịch chú trọng toàn diện các yếu tố, nhất là nhân tố chính trị - tinh thần. Trong đó, tập trung xây dựng cho bộ đội ý chí quyết tâm chiến đấu cao, bản lĩnh, tâm lý vững vàng; đồng thời, giáo dục nhiệm vụ, làm cho bộ đội thấy rõ đòi hỏi của chiến trường lúc này là phải tập trung đánh lớn để tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân ngụy, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ địa, tạo cục diện mới, thúc đẩy chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển.

Theo đó, các đơn vị tập trung quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối chiến tranh của Đảng, phát huy trí tuệ, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao. Trong giáo dục chính trị, tư tưởng, các đơn vị kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tinh thần đoàn kết, hiệp đồng, ý thức cảnh giác, giữ bí mật, chấp hành kỷ luật chiến trường và thực hiện đúng chính sách trong chiến đấu; kịp thời và kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tư tưởng ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh. Thường xuyên chăm lo, động viên chiến đấu, cổ vũ chiến trường, phát động phong trào thi đua lập công, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu, khẩu hiệu hành động sát hợp với từng đơn vị, từng đợt và từng trận. Từng cá nhân, đơn vị tự viết quyết tâm thư; khẩu hiệu hành động: “Đánh chí cốt”, “Đi là chiến thắng, đánh là dứt điểm”,… sớm lan rộng, trở thành phong trào chung ở các đơn vị tham gia Chiến dịch. Cán bộ, chỉ huy của các đơn vị chủ lực và địa phương luôn bám sát nhiệm vụ, từng đối tượng; cả tuyến trước, tuyến sau, cả trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nên đã kịp thời tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội. Vì thế, trong chiến đấu, bộ đội đã thể hiện rõ ý chí, tinh thần anh dũng, không sợ hy sinh, gian khổ, không những đã chiến thắng bom, đạn, mà còn “vượt lên” những vũ khí, phương tiện, trang bị hiện đại, như xe tăng, máy bay của địch, góp phần tiêu diệt toàn bộ Chi đoàn thiết giáp số 3 và Tiểu đoàn thủy quân lục chiến số 4 đi ứng cứu, chi viện cho ấp Bình Giã.

Để giành thắng lợi, Bộ Chỉ huy Miền còn đặc biệt quan tâm phát huy khả năng của lực lượng vũ trang và nhân dân để chủ động chuẩn bị hậu cần, kỹ thuật cho Chiến dịch. Phương châm của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền là kết hợp chặt chẽ hậu cần cấp trên (Miền) và hậu cần tại chỗ, trong đó, “hậu cần tại chỗ” là chủ yếu; đồng thời, tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. Bộ phận hậu cần tiền phương được thành lập, gồm: 200 cán bộ, chiến sĩ và khung vận tải của U50 (Khu A); bộ phận hậu cần chiến dịch, gồm: hậu cần của Quân khu 7, tỉnh Bà Rịa, Đoàn 1.500, Đoàn K10 và nhân dân địa phương, Ban Quân nhu Khu E làm nòng cốt. Bộ phận này bao gồm đủ các cơ quan, 04 đội thu mua, vận tải, 02 bệnh viện dã chiến, 01 đội phẫu thuật lưu động, 01 kho dược và nhiều kho vũ khí, đạn dược. Nhờ sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền các cấp, trong đó có Tỉnh đội Bà Rịa, Đoàn Hậu cần 81, 82, 83 và nhân dân địa phương, hậu cần chiến dịch đã huy động được gần 2.000 dân công; thu mua, vận chuyển và dự trữ được 750 tấn lương thực, thực phẩm (500 tấn tại chỗ, 250 tấn từ Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long). Lần đầu tiên ở Đông Nam Bộ, hậu cần chiến dịch được tổ chức đồng bộ, có cơ quan chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ; có kho dã chiến dự trữ vũ khí, đạn dược; có tuyến trước, tuyến sau; có đội phẫu thuật lưu động và bệnh viện dã chiến; thiết lập hệ thống thu mua lương thực, thực phẩm liên hoàn, gắn liền các kho cấp phát,... đảm bảo kịp thời mọi mặt cho tác chiến. Bộ Chỉ huy Miền đã kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần chính quy với hậu cần nhân dân; hậu cần chiến lược, chiến dịch với hậu cần tại chỗ. Đây là một sáng tạo trong công tác đảm bảo hậu cần, kỹ thuật chiến dịch, cơ sở khoa học để Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền lãnh đạo, chỉ đạo công tác hậu cần, kỹ thuật trong các chiến dịch, trận đánh sau này.

Trước khi mở Chiến dịch, Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động tiến công địch trên khắp chiến trường. Trong đó chú trọng căn cứ không quân Biên Hòa, nhằm căng, kéo, thu hút sự chú ý của chúng về hướng khác, nghi binh, giữ bí mật và hạn chế tới mức thấp nhất khả năng tham gia của lực lượng không quân địch. Thực hiện nhiệm vụ này, lực lượng vũ trang Miền cùng với nhân dân miền Đông Nam Bộ đồng thời tiến công vào nhiều mục tiêu, phá tan một loạt ấp chiến lược ở huyện Hoài Đức, Đất Đỏ, Long Thành,… cách xa địa bàn mở chiến dịch; giải phóng Phò Trì ven biển Hàm Tân, mở thông tuyến tiếp nhận hàng hóa từ miền Bắc vào bằng đường biển. Đoàn 800 Quân khu 7 thực hiện chia cắt, bao vây và cô lập từng cụm, diệt gọn đoàn xe địch trên đường 15. Riêng pháo binh Miền (U.80) được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân, nhất là người dân ở xung quanh căn cứ không quân Biên Hòa, đã bí mật đưa súng, pháo vào áp sát sân bay, tạo lợi thế tiến công, nâng cao hiệu suất chiến đấu. Bị tấn công bất ngờ trên toàn địa bàn, trong đó có căn cứ không quân Biên Hòa - biểu tượng sức mạnh của Mỹ, ngụy bị thiệt hại nặng, gần như tê liệt: hỏng 59 máy bay các loại, nhiều giặc lái, nhân viên kỹ thuật, bảo vệ bị tiêu diệt. Tiến công mạnh trên khắp địa bàn và tiến công vào nơi mạnh nhất, nơi sơ hở của địch là một quyết định đúng đắn, sáng tạo của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, làm cho địch phán đoán sai ý định của ta, thậm chí còn điều quân ra xa Bình Giã.

Thắng lợi đó là điển hình của sự phát triển nghệ thuật chiến tranh cách mạng miền Nam, góp phần quan trọng giành thắng lợi Chiến dịch. Bộ Chỉ huy Miền nhận định, khi tăng viện, ứng cứu, giải tỏa, địch sẽ sử dụng tối đa lực lượng không quân để giành ưu thế trên chiến trường. Từ đó, đã chỉ đạo lực lượng phòng không chiến dịch nghiên cứu kỹ địa hình, xác định hướng, đường bay, khu vực, bãi đổ quân; đồng thời chọn vị trí thuận lợi triển khai khí tài phục kích, đón lõng đánh máy bay địch, quân đổ bộ. Với vũ khí, trang bị hiện có và thu được của địch (súng trường, tiểu liên, trung liên và cả trọng liên trên các xe M.113), quân Giải phóng đã thiết lập được thế trận phòng không linh hoạt, dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp bao trùm “đàn quạ sắt” - niềm “kiêu hãnh” của Quân đội Việt Nam cộng hòa. Vì thế, hầu hết các máy bay của chúng đã cất cánh tham gia trận đánh đều “không thể” quay về căn cứ. Trận đầu tiên, ngày 09-12-1964, quân Giải phóng đã bắn rơi 04 máy bay, trong đó 03 trực thăng vũ trang, 01 máy bay trinh sát L.19, bắn hỏng 03 trực thăng vũ trang. Ngày 28-12, địch sử dụng 24 trực thăng vũ trang yểm trợ cho 50 trực thăng chở quân định đổ xuống Đông Bắc Bình Giã để phối hợp với Tiểu đoàn 30 ở hướng Tây đánh chiếm lại Ấp. Nhưng chúng đã rơi vào đúng thế trận bố trí sẵn của ta, nên không thể đổ quân ở hướng Đông Bắc, buộc phải đổ quân sang hướng Đông Nam. Kết quả, ta bắn rơi 18 máy bay, diệt gọn Tiểu đoàn 33 và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 30 khi chúng vừa tiếp đất, chưa kịp chấn chỉnh đội hình tiến công, v.v.

Chiến dịch Bình Giã thắng lợi đã khẳng định sự phát triển mọi mặt của chiến tranh cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó khiến Bộ Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oa-sinh-tơn đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi Quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã… Mọi bằng chứng chỉ rõ tình hình sụp đổ cuối cùng của Chính phủ Việt Nam là có thể xảy ra và rõ ràng là có khả năng Việt cộng củng cố một cách thắng lợi quyền lực của họ”2.

Đại tá, ThS. PHẠM ĐỨC TRƯỜNG, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
_____________________

1 - Lịch sử Bà Rịa - Vũng Tàu kháng chiến (1945 - 1975), Nxb QĐND, H. 1995, tr. 256.

2 - Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam, Tập 2, Việt Nam TTX phát hành, H. 1971, tr. 25.