Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng được thông qua tại Đại hội nào của Đảng
Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Show Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9]. Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12]. Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15]. PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng Cộng sản Việt NamĐại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được triệu tập (tháng 3-1982). Đại hội được tiến hành trong tình hình đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Đại hội đã kiểm điểm, tự phê bình về những sai lầm chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; chỉ trích về tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thể hiện ở việc “duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, bao cấp'', nên cơ sở đó đã điều chỉnh một bước đường lối chung và đường lối kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội xác định nước ta ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ nội dung công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Trước mắt phải coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải ra sức phát triển hàng tiêu dùng, v.v.. Đại hội đã đề ra một số chủ trương về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, để phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, thể hiện cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1981-1985, nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là: Vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý thức kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Về các nhiệm vụ cụ thể, trước hết là: làm quán triệt đường lối các mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội cũng chỉ rõ: công tác tư tưởng cần khắc phục các yếu kém, phải hướng mạnh vào việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, tự do vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hoá về lối sống, mất dân chủ, quan liêu hoá về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng. Để cải tiến công tác tư tưởng phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống, nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến, cổ vũ, vun xới cho những nhân tích cực sớm được nhân lên. Toàn Đảng phải làm công tác tư tưởng. Mọi đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng. Phối hợp tất cả các cơ quan, các ban, ngành đoàn thể, sử dụng tất cả các công cụ thông tin, văn hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục, v.v.. để làm công tác tư tưởng; gắn chặt công tác tuyên truyền giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn để làm công tác tư tưởng... Đối với lĩnh vực công tác khoa giáo, Báo cáo chính trị đã đề ra các nhiệm vụ: - Đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật, coi đây là một nội dung rất quan trọng của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, cuộc cách mạng giữ vị trí then chốt trong ba cuộc cách mạng: ứng dụng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống kết hợp các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật nhằm góp phần vào việc đổi mới quản lý kinh tế quản lý xã hội. - Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Vấn đề lớn nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm trọng, cần hết sức coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục... - Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới. Đảng và Nhà nước phải chăm lo hơn nữa phát triển thể dục thể thao… - Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác phòng chống dịch bệnh, tổ chức tốt hơn việc khám chữa bệnh, kết hợp có hiệu quả hơn nữa y học cổ truyền dân tộc và y học hiện đại. Khai thác mọi khả năng sẵn có trong nước về nguồn dược liệu, xây dựng công nghiệp dược phẩm, khắc phục tình trạng thiếu thuốc... - Mở rộng mạng lưới y tế, nhất là tuyến cơ sở và tuyến huyện. Đặc biệt chăm lo phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng một số công trình văn hoá ở các huyện lỵ và xã theo phương châm ''Nhà nước và nhân dân cùng làm''. Nhìn chung, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra từ sau Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) đến Đại hội V đã bước đầu thể hiện sự chú ý hơn tới việc thúc đẩy tăng tưởng kinh tế đi đôi với việc phát triển văn hoá, xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Ngay sau Đại hội, Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương đã mở Hội nghị nhằm tuyên truyền, phổ biến và xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng. Công tác tuyên truyền quán triệt Nghị quyết Đại hội V đã góp phần 1àm rõ hơn cục diện cách mạng nước ta, nhìn nhận đúng đắn hơn thành tựu và khuyết điểm, động viên toàn Đảng, toàn dân tập trung cao hơn vào mặt trận nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, phấn đấu thực hiện toàn diện các chỉ tiêu, biện pháp của kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1981-1985. Phân tích, khắc phục các biểu hiện tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động về đường lối, thái độ bàng quan, thiếu trách nhiệm, nói nhiều làm ít, chỉ kêu ca mà không gương mẫu hành động góp phần khắc phục khó khăn, đẩy lùi tiêu cực. Theo Lịch sử 80 năm ngành Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), trang 178,179.
|