Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý
Mục lục bài viết
Show 1. Khoa học pháp lý là gì?Có thể hiểu khoa học pháp lý là tổng thể tri thức được tích lũy có hệ thống về nội dung, bản chất, phương pháp luận nghiên cứu bộ máy, khái niệm pháp lý, các nguyên lý, tính quy luật của các hiện tượng pháp luật, đời sống pháp luật của xã hội có giai cấp. Khoa học pháp lý nghiên cứu nội dung, bản chất của các chế định pháp luật, các khái niệm, các quy luật và thuộc tính quy luật của những hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội. 2. Phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lýlà gìPhương pháp nghiên cứu khoa học pháp lýcó thể hiểu đó là những phương pháp nghiên cứu khoa học được vận dụng vào hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý. Nói cách khác, đó chính là cách thức tiến hành các công việc nghiên cứu mà người làm công tác nghiên cứu cần phải thực hiện để thu thập được những bằng chứng, dữ liệu, tìm ra những phát hiện, những tri thức mới đáng tin cậy. Phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lýthường được chia thành 2 nhóm phương pháp: phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Đi vào cụ thể, có thể nói tới 5 phương pháp cơ bản như: (1) phương pháp quan sát, mô tả thực tế; (2) phương pháp thực nghiệm khoa học; (3) phương pháp điều tra (phỏng vấn ngẫu nhiên, phỏng vấn sâu, điều tra theo mẫu v.v.); (4) phương pháp nghiên cứu tình huống (case studies); (5) phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp (dữ liệu có sẵn, chẳng hạn các số liệu thống kê); (6) phương pháp so sánh (trong lĩnh vực luật là phương pháp luật học so sánh). Trong quá trình xử lý dữ liệu được thu thập (kể cả dữ liệu sơ cấp hoặc dữ liệu thứ cấp), nhất là khi viết báo cáo kết quả nghiên cứu, nhà nghiên cứu thường sử dụng các kỹ thuật xử lý dữ liệu hoặc kỹ thuật tư duy (mà nhiều khi cũng được gọi là phương pháp nghiên cứu) như: tổng hợp, phân tích, trừu tượng hóa, mô hình hóa, diễn dịch, quy nạp v.v. Trong thực tế hiện nay, người làm nghiên cứu khoa học pháp lý có thể sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau tùy theo đối tượng, nội dung hay vấn đề nghiên cứu cần thực hiện. Chẳng hạn, khi nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận, để nhận diện sâu sắc hơn bản chất của vấn đề, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp, mô hình hóa sẽ được sử dụng. Khi nghiên cứu các vấn đề thực tiễn, việc điều tra, khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu thống kê (hay còn gọi là phương pháp xã hội học) rất cần thiết được thực hiện. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, do sự giới hạn về thời gian, nguồn lực nghiên cứu, người được giao thực hiện nghiên cứu không có điều kiện để tự mình tiến hành tổng hợp, nghiên cứu toàn bộ các vấn đề mà phải sử dụng các chuyên gia, người có am hiểu sâu về một số nội dung, khía cạnh được nghiên cứu. Khi này, giới nghiên cứu thường gọi là phương pháp tham vấn ý kiến chuyên gia hoặc trưng cầu ý kiến chuyên gia. Dưới đây, xin làm rõ thêm về một sốphương pháp nghiên cứu khoa học thườngđược sử dụng: 3. Phương pháp phân tích và tổng hợpPhân tíchlà phương pháp nhận thức về sự vật, hiện tượng bằng cách chia sự vật, hiện tượng (mang tính toàn thể hay tổng thể) thành những phần, những bộ phận, những chiều cạnh giản đơn hơn để nghiên cứu. Ví dụ, khi nghiên cứu về mô hình tổng thểbộ máy nhà nướcViệt Nam, người làm nghiên cứu khoa học pháp lý thường chia nhỏ ra để nghiên cứu riêng về 4 bộ phận cơ bản: (1) cơ quanlập pháp, (2) cơ quanhành pháp, (3)cơ quan tư pháp, và (4) bộ máychính quyền địa phương. Qua việc phân tích, làm rõ từng phần, từng bộ phận, tổng hợp lại kết quả, xâu chuỗi, xâu nối lại, ta có bức tranh tổng thể về bộ máy nhà nước. Phương pháp phân tích trong nghiên cứu khoa học chính là việc ứng dụng lối tư duy, chia việc khó thành nhiều việc dễ để thực hiện. 4. Phương pháp mô hình hóaPhương pháp mô hình hóalà một phương pháp khoa học để nghiên cứu các đối tượng, các quá trình … bằng cách xây dựng các mô hình của chúng (các mô hình này bảo toàn các tính chất cơ bản được trích ra của đối tượng đang nghiên cứu) và dựa trên mô hình đó để nghiên cứu trở lại đối tượng thực. 5. Phương pháp điều tra, khảo sát xã hội họcTrong thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay, đánh giá thực tiễn vận hành của pháp luật trong đời sống là chủ đề rất quan trọng. Công việc này có thể thực hiện bằng việc tham vấn ý kiến chuyên gia, những người đã nhiều năm theo dõi, quan sát về lĩnh vực mà người được giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm hiểu. Tuy nhiên, kể cả việc tham vấn ý kiến chuyên gia như vậy cũng khó thu được thông tin đầy đủ và toàn diện. Chính vì thế, phương pháp điều tra, khảo sát xã hội học rất được coi trọng. Việcđiều tra, khảo sát xã hội họcđòi hỏi rất nhiều yêu cầu, kỹ thuật để thực hiện. Điều trước tiên là phải xác định đượcphạm vi, nội dung, đối tượng điều tra, khảo sát. Đây chính là những người có được thông tin mà người nghiên cứu đang cần được tiếp cận. Chẳng hạn, nếu chúng ta được giao nhiệm vụ đánh giá thực tiễn thi hành Luậtan toàn thực phẩmnăm 2010 bằng việc điều tra, khảo sát thực tiễn, khi xác định đối tượng điều tra, khảo sát phải bao gồm các nhóm đối tượng cơ bản sau đây: –Cán bộtrực tiếp tổ chức thực thi Luật: cán bộ các cơ quan y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương ở các cấp. – Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh trực tiếp phải chấp hànhLuật an toàn thực phẩm: ví dụ cơ sở thức ăn đường phố, nhà hàng v.v. – Người dân với tư cách là người tiêu dùng thực phẩm. Việc chọn địa bàn điều tra, khảo sát cũng rất quan trọng. Yêu cầu chính khi chọn địa bàn điều tra, khảo sát là phải xem địa bàn ấy có đối tượng được điều tra, khảo sát có nhiều thông tin cần thu thập hay không. Thêm vào đó, phải làm sao địa bàn được chọn mang tính đại diện cho cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, có đại diện của đô thị, nông thôn và miền núi (thậm chí là vùng biển, hải đảo). Ví dụ: khi điều tra, khảo sát về thực tiễn thi hành Luật an toàn thực phẩm, số tỉnh, thành phố được chọn làm địa bàn điều tra thường là 9 tỉnh để bảo đảm tính đại diện. – Phỏng vấn đối tượng điều tra, khảo sát thông qua phiếu hỏi (phiếu thông thường hoặc phiếu phỏng vấn sâu). 6. Phương pháp luật học so sánhSử dụngphương pháp so sánhđể tìm ra điểm giống và khác của pháp luật giữa các quốc gia khác nhau chưa đủ để trở thành phương pháp luật học so sánh mặc dù phương pháp luật học so sánh thường sử dụng kỹ thuật so sánh, đối chiếu này. Phương pháp luật học so sánhđòi hỏi nghiên cứu, giải thích sự phát sinh, phát triển, biến đổi của các quy phạm pháp luật, cácchế định pháp luật, các thiết chế pháp luật trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử của quốc gia được chọn lựa để so sánh, từ đó hiểu rõ giá trị, vai trò, ý nghĩa của các quy phạm, chế định hoặc thiết chế đó. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc ấy, việc so sánh và phát hiện điểm giống và khác, cùng với sự giải thích căn nguyên của những sự giống và khác đó mới có ý nghĩa. Ngoài ra, phương pháp luật học so sánh còn quan tâm tới hiện tượng tiếp nhận, lan tỏa, khuếch tán pháp luật nước ngoài (legal diffusion) hoặc cấy ghép pháp luật, khi các quốc gia có sự học hỏi, tham khảo lẫn nhau đểhoàn thiệnpháp luật của quốc gia mình. |