Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit

Bao gồm lớp A, lớp B, lớp C, lớp D và lớp E. Lớp A dành một byte cho phần network_id và ba byte cho phần host_id.





1 - Lớp A :

Dành một byte cho phần network_id và ba byte cho phần host_id.



Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Địa chỉ lớp A

Để nhận diện ra lớp A, bit đầu tiên của byte đầu tiên phải là bit 0. Dưới dạng nhị phân, byte này có dạng 0xxxxxxx. Vì vậy, những địa chỉ IP có byte đầu tiên nằm trong khoảng từ 0 (00000000) đến 127 (01111111) sẽ thuộc lớp A. Ví dụ địa chỉ 50.14.32.8 là một địa chỉ lớp A (50<127).





Byte đầu tiên này cũng chính là network_id, trừ đi bit đầu tiên làm ID nhận dạng lớp A, còn lại bảy bit để để đánh thứ tự các mạng, ta được 128 (2 mũ 7) mạng lớp A khác nhau. Bỏ đi hai trường hợp đặc biệt là 0 và 127. Kết quả là lớp A chỉ còn 126 (2 mũ 27 2) địa chỉ mạng, 1.0.0.0 đến 126.0.0.0.



Phần host_id chiếm 24 bit, tức có thể đặt địa chỉ cho 16.777.216 (2 mũ 24) host khác nhau trong mỗi mạng. Bỏ đi một địa chỉ mạng (phần host_id chứa toàn các bit 0) và một địa chỉ broadcast (phần host_id chứa toàn các bit 1) như vậy có tất cả 16.777.214 (2 mũ 24 2) host khác nhau trong mỗi mạng lớp A. Ví dụ, đối với mạng 10.0.0.0 thì những giá trị host hợp lệ là 10.0.0.1 đến 10.255.255.254.







Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Mô tả các mạng lớp A kết nối với nhau




2 - Lớp B :



Dành hai byte cho mỗi phần network_id và host_id.







Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Địa chỉ lớp B

Dấu hiệu để nhận dạng địa chỉ lớp B là byte đầu tiên luôn bắt đầu bằng hai bit 10. Dưới dạng nhị phân, octet có dạng 10xxxxxx. Vì vậy những địa chỉ nằm trong khoảng từ 128 (10000000) đến 191 (10111111) sẽ thuộc về lớp B. Ví dụ 172.29.10.1 là một địa chỉ lớp B (128<127<191).





Phần network_id chiếm 16 bit bỏ đi 2 bit làm ID cho lớp, còn lại 14 bit cho phép ta đánh thứ tự 16.384 (2 mũ 14) mạng khác nhau (128.0.0.0 đến 191.255.0.0).



Phần host_id dài 16 bit hay có 65536 (2 mũ 16) giá trị khác nhau. Trừ hai trường hợp đặc biệt còn lại 65534 host trong một mạng lớp B. Ví dụ, đối với mạng 172.29.0.0 thì các địa chỉ host hợp lệ là từ 172.29.0.1 đến 172.29.255.254.





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Mô tả các mạng lớp B kết nối với nhau



3 - Lớp C :



Dành ba byte cho phần network_id và một byte cho phần host_id.





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Địa chỉ lớp C

Byte đầu tiên luôn bắt đầu bằng ba bit 110 và dạng nhị phân của octet này là 110xxxxx. Như vậy những địa chỉ nằm trong khoảng từ 192 (11000000) đến 223 (11011111) sẽ thuộc về lớp C. Ví dụ một địa chỉ lớp C là 203.162.41.235 (192<203<223).





Phần network_id dùng ba byte hay 43 bit, trừ đi 3 bit làm ID của lớp, còn lại 21 bit hay 2.097.152 (2 mũ 21) địa chỉ mạng (từ 192.0.0.0 đến 223.255.255.0).



Phần host_id dài một byte cho 256 (2 mũ 8) giá trị khác nhau. Trừ đi hai trường hợp đặc biệt ta còn 254 host khác nhau trong một mạng lớp C. Ví dụ, đối với mạng 203.162.41.0, các địa chỉ host hợp lệ là từ 203.162.41.1 đến 203.162.41.254.



4 - Lớp D và E :

Các địa chỉ có byte đầu tiên nằm trong khoảng 224 đến 255 là các địa chỉ thuộc lớp D hoặc E. Do các lớp này không phục vụ cho việc đánh địa chỉ các host nên không trình bày ở đây.



5 - Bảng tổng kết :





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit








Bảng tổng kết lớp A, lớp B, lớp C



Ghi chú :

XX là số bất kỳ trong miền cho phép.



6 - Ví dụ cách triển khai địa chỉ IP cho một hệ thống mạng :









Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit




Minh họa một hệ thống mạng



Thông thường, ta phải dùng đến nhiều đường mạng riêng biệt để đặt cho hệ thống mạng của mình, mặc dù trong mỗi mạng chỉ dùng đến vài địa chỉ trong tổng số 65534 địa chỉ hợp lệ, đó là một sự phí phạm to lớn.



7 - Chia mạng con (subnetting) :

Giả sử ta phải tiến hành đặt địa chỉ IP cho hệ thống có cấu trúc như sau :





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit




Hệ thống mạng con có 6 đường mạng

Theo mô hình trên, ta bắt buộc phải dùng đến tất cả là sáu đường mạng riêng biệt để đặt cho hệ thống mạng của mình, mặc dù trong mỗi mạng chỉ dùng đến vài địa chỉ trong tổng số 65534 địa chỉ hợp lệ, đó là một sự phí phạm to lớn. Thay vì vậy, khi sử dụng kỹ thuật chia mạng con, ta chỉ cần sử dụng một đường mạng 150.150.0.0 và chia đường mạng này thành sáu mạng con theo mô hình bên dưới.





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit




Hệ thống mạng con có 6 đường mạng (sau khi chia subne)



Rõ ràng khi tiến hành cấp phát địa chỉ cho các hệ thống mạng lớn, người ta phải sử dụng kỹ thuật chia mạng con trong tình hình địa chỉ IP ngày càng khan hiếm. Ví dụ trong hình trên hoàn toàn chưa phải là chiến lược chia mạng con tối ưu. Thật sự người ta còn có thể chia mạng con nhỏ hơn nữa, đến một mức độ không bỏ phí một địa chỉ IP nào khác.



Xét về khía cạnh kỹ thuật, chia mạng con chính là việc mượn một số bit trong phần host_id ban đầu để đặt cho các mạng con. Lúc này, cấu trúc của địa chỉ IP gồm có 3 phần : network_id, subnet_id và host_id. Số bit dùng cho phần subnet_id bao nhiêu là tùy thuộc vào chiến lược chia mạng con của người quản trị, có thể là một con số tròn byte (8 bit) hoặc một con số bit lẻ vẫn được. Tuy nhiên, subnet_id không thể chiếm trọn số bit có trong host_id ban đầu, cụ thể là (số bit làm subnet_id) <= (số bit làm host_id) 2.





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit




Số lượng subnet tối đa được phép

Số lượng host trong mỗi mạng con được xác định bằng số bit trong phần host_id; 2 mũ x 2 là số địa chỉ hợp lệ có thể đặt cho các host trong mạng con. Tương tự, số bit trong phần subnet_id xác định số lượng mạng con. Giả sử số bit là y 2 mũ y 2 là số lượng mạng con có được (trường hợp đặc biệt thì có thể sử dụng được 2 mũ y mạng con).



Một số khái niệm mới :



- Địa chỉ mạng con (địa chỉ đường mạng) : bao gồm cả phần network_id và subnet_id, phần host_id chỉ chứa các bit 0. Theo hình bên trên thì ta có các địa chỉ mạng con sau : 150.150.1.0, 150.150.2.0,



- Địa chỉ broadcast trong một mạng con : giữ nguyên các bit dùng làm địa chỉ mạng con, đồng thời bật tất cả các bit trong phần host_id lên 1. Ví dụ địa chỉ broadcast của mạng con 150.150.1.0 là 150.150.1.255.



- Mặt nạ mạng con (subnetmask) : giúp máy tính xác định được địa chỉ mạng con của một địa chỉ host. Để xây dựng mặt nạ mạng con cho một hệ thống địa chỉ, ta bật các bit trong phần network_id và subnet_id lên 1, tắt các bit trong phần host_id thành 0. Ví dụ mặt nạ mạng con dùng cho hệ thống mạng trong hình trên là 255.255.255.0.



Vấn đề đặt ra là khi xác định một địa chỉ IP (ví dụ 172.29.8.230) ta không thể biết được host này nằm trong mạng nào (không thể biết mạng này có chia mạng con hay không và nếu có chia thì dùng bao nhiêu bit để chia). Chính vì vậy khi ghi nhận địa chỉ IP của một host, ta cũng phải cho biết subnet mask là bao nhiêu (subnet mask có thể là giá trị thập phân, cũng có thể là số bit dùng làm subnet mask).



- Ví dụ địa chỉ IP ghi theo giá trị thập phân của subnet mask là 172.29.8.230/255.255.255.0.



- Hoặc địa chỉ IP ghi theo số bit dùng làm subnet mask là 172.29.8.230/24.





8 - Địa chỉ riêng (private address) và cơ chế chuyển đổi địa chỉ mạng (Network Address Translation NAT) :



Tất cả các IP host khi kết nối vào mạng Internet đều phải có một địa chỉ IP do tổ chức IANA (Internet Assigned Numbers Authority) cấp phát, gọi là địa chỉ hợp lệ (hay được đăng ký). Tuy nhiên, số lượng host kết nối vào mạng ngày càng gia tăng dẫn đến tình trạng khan hiếm địa chỉ IP. Một giải pháp đưa ra là sử dụng cơ chế NAT kèm theo là RFC 1918 quy định danh sách địa chỉ riêng. Các địa chỉ này sẽ không được IANA cấp phát, hay còn gọi là địa chỉ không hợp lệ. Bảng sau liệt kê danh sách các địa chỉ này :





Hostid của địa chỉ lớp C chiếm bao nhiêu bit




Bảng danh sách các địa chỉ không hợp lệ

9 - Cơ chế NAT :



NAT được sử dụng trong thực tế là tại một thời điểm, tất cả các host trong mạng LAN thường không truy xuất vào internet đồng thời, chính vì vậy ta không cần phải sử dụng một số lượng tương ứng địa chỉ IP hợp lệ. NAT cũng được sử dụng khi nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) cung cấp số lượng địa chỉ IP hợp lệ ít hơn so với số máy cần truy cập internet. NAT được sử dụng trên các router đóng vai trò là gateway cho một mạng. Các host bên trong mạng LAN sẽ sử dụng một lớp địa chỉ riêng thích hợp. Còn danh sách các địa chỉ IP hợp lệ sẽ được cấu hình trên router NAT. Tất cả các packet của các host bên trong mạng LAN khi gởi đến một host trên internet đều được router NAT phân tích và chuyển đổi các địa chỉ riêng có trong packet thành một địa chỉ hợp lệ trong danh sách rồi mới chuyển đến host đích nằm trên mạng Internet. Sau đó, nếu có một packet gởi cho một host bên trong mạng LAN thì router NAT cũng chuyển đổi địa chỉ đích thành địa chỉ riêng của host đó rồi mới chuyển cho host ở bên trong mạng LAN.



Một cơ chế mở rộng của NAT là PAT (Port Address Translation) cũng dùng cho mục đích tương ứng. Lúc này thay vì chỉ chuyển đổi địa chỉ IP thì cả địa chỉ cổng dịch vụ (port) cũng được chuyển đổi (do router NAT quyết định).