Mô hình kinh tế thị trường của Nhật Bản

Với dân số gần 126 triệu người và thu nhập bình quân đầu người khoảng 43.000 USD/người, Nhật Bản là thị trường có sức tiêu thụ lớn.

Tuy vậy, theo số liệu của Cơ quan Hải quan Nhật Bản, nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản từ thế giới. Điều này cho thấy hàng Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa và tiềm năng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

(Hình ảnh minh họa)

Nhật Bản có nhu cầu lớn đối với hàng nông lâm thủy sản, dệt may, da giày… của Việt Nam. Năm 2020 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 19,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là: hàng dệt may 3,5 tỷ USD, phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD, hàng máy móc thiết bị 2 tỷ USD, thủy sản 1,4 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ 1,3 tỷ USD…, ngoài ra xuất khẩu hàng rau quả 128 triệu USD, cà phê 181 triệu USD, sắn và sản phẩm từ sắn 1,4 triệu USD…

Trong những năm gần đây đang diễn ra làn sóng các doanh nghiệp Nhật Bản chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhật tăng cường xây dựng nhà máy, sản xuất sản phẩm ở Việt Nam rồi xuất khẩu ngược lại về Nhật Bản. Bên cạnh đó số lượng người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản cũng tăng nhanh trong một thập kỷ qua, khiến cho nhu cầu tiêu thụ hàng nông thủy sản – thực phẩm Việt Nam ngày càng gia tăng.

Để xuất khẩu thành công sang Nhật Bản doanh nghiệp cần hiểu rõ về thị trường. Thị trường Nhật Bản có một số đặc điểm nổi bật như sau:

Tiêu chuẩn kỹ thuật mang tính đặc thù

Mặc dù theo đuổi chính sách thương mại tự do (cắt giảm thuế quan theo tinh thần của WTO), Nhật Bản vẫn áp dụng các cơ chế phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Trong các rào cản như vậy, Chính phủ Nhật Bản thường lồng những lý do chính đáng như bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh (chống bán phá giá, chống trợ cấp), bảo vệ an toàn sức khỏe con người, an toàn môi trường… Nhìn chung các hàng hóa thông thường được tự do nhập khẩu vào Nhật Bản, tuy nhiên Chính phủ Nhật áp dụng các biện pháp cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu… đối với các hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an ninh lương thực, hàng hóa trái thuần phong mỹ tục hay vi phạm quy định bằng sáng chế, v.v…

Hàng hóa nước ngoài muốn được nhập khẩu vào Nhật bắt buộc phải có giấy chứng nhận việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng đã đặt ra. Đối với hàng nông lâm thủy sản cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật; trong khi hàng công nghiệp cần phải đáp ứng điều kiện về quy cách sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật, quy định ghi nhãn hay các quy định ghi trong JIS – Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản… Các lô hàng vi phạm quy định về chất lượng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả lại, đồng thời hải quan Nhật Bản sẽ tăng cường tần suất và mức độ kiểm tra hàng hóa trong những lần sau, có thể gây ra nhiều phiền phức và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Thực tế cho thấy nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường Nhật Bản chấp thuận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh tốt được ở các thị trường khác.

Hệ thống kênh phân phối phức tạp

Hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản phức tạp với truyền thống lâu đời gồm nhiều cấp khác nhau, với các chức năng riêng biệt. Ví dụ có những chuỗi siêu thị của Nhật Bản không nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài, mà chỉ mua hàng từ các nhà bán buôn trung gian hoặc từ các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Mặc dù việc này có thể gia tăng chi phí của các siêu thị (so với việc mua hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài) nhưng đây là một đặc tính lâu đời khó có thể thay đổi trong văn hóa kinh doanh tại Nhật Bản. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nước ngoài muốn xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật phải thiết lập được mối quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Nhìn chung hiện nay việc tiếp cận hệ thống kênh phân phối hàng hóa trên thị trường Nhật Bản của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do nhiều khó khăn đặc thù. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản, trong khi việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế, nhất là hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh tại thị trường Nhật Bản.

Chi phí xúc tiến thương mại, giao thương, điều tra thị trường… đắt đỏ

- Chi phí ăn, ở: Tokyo nằm trong top các thành phố có chi phí sống đắt đỏ nhất thế giới năm 2020. Giá 1 đêm ở khách sạn business tối thiểu là hơn 1 triệu VND.

- Chi phí đi lại: Phí tàu điện cao (Ví dụ: vé trọn gói đi trong ngày của tàu điện ngầm trong khu vực trung tâm Tokyo là 600 Yên ~ 120.000 VND, của tàu điện thường là 900 yên ~ 180.000 VND, con số cao gấp khoảng 2 - 3 lần so với chi phí đi tàu điện ở Bắc Kinh, phí taxi khoảng 120.000 – 150.000 VND/2km, gấp 2 lần phí taxi ở Hàn Quốc).

- Chi phí vận tải hàng hóa, gửi hàng mẫu tốn kém, đặc biệt chi phí vận tải đường biển tăng cao trong giai đoạn dịch bệnh hiện nay, chi phí đường hàng không tốn kém. Chi phí thuê điều tra hoặc mua dữ liệu thị trường của các công ty Nhật Bản chuyên điều tra thị trường cũng là rất cao.

Văn hóa kinh doanh, thị hiếu tiêu dùng đặc thù

- Thị hiếu tiêu dùng: từ trước đến nay đối với người dân Nhật Bản khi mua hàng thì chất lượng là yếu tố được quan tâm nhất. Các hàng hóa được sản xuất nội địa tại Nhật có chất lượng cao, điều này tạo ra tâm lý tiêu dùng của người Nhật luôn đòi hỏi các sản phẩm phải có chất lượng tốt, trong đó có các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Tiếp đến người Nhật cũng chú trọng đến giá cả, mẫu mã, kích thước, màu sắc, công dụng… của sản phẩm. Ví dụ: nhịp sống nhanh, công việc bận bịu khiến nhiều người ưa chuộng các sản phẩm thực phẩm ăn liền tiết kiệm thời gian; màu sắc quần áo thường chủ đạo là những gam màu trắng, đen, xám…; đồ nội thất trong nhà có kích thước nhỏ để phù hợp với kích thước các căn nhà ở Nhật, bàn ghế gỗ có thể gập và cất gọn lại... Nhìn chung thị hiếu tiêu dùng của người Nhật rất đa dạng, coi trọng chất lượng và tính tiện dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng mọi nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày. Các doanh nghiệp nước ngoài muốn có chỗ đứng tại thị trường Nhật cần nghiên cứu tìm hiểu rõ về thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm cung với việc tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành.

- Về văn hóa kinh doanh của Nhật Bản, khi gặp gỡ đối tác Nhật lần đầu tiên thì doanh nghiệp Việt Nam cần nhớ mang theo danh thiếp, kèm theo catalogue, hồ sơ giới thiệu công ty, hàng mẫu (nếu bằng tiếng Nhật là tốt nhất, hoặc ít nhất phải có tiếng Anh)… để giới thiệu lịch sự về bản thân, về doanh nghiệp và tạo niềm tin cho đối tác. Cần đảm bảo đúng giờ và giữ lời khi đã hứa hẹn một việc gì đó với đối tác. Ngoài ra nhiều nhân viên các công ty Nhật thường không làm việc vào những ngày cuối tuần/ngày nghỉ, và thường liên lạc công việc qua email hoặc điện thoại công ty chứ không phải bằng điện thoại di động.

- Bắt đầu thiết lập một quan hệ hợp tác kinh doanh hoàn toàn mới với doanh nghiệp Nhật Bản không hề đơn giản, nhiều trường hợp phải có sự giới thiệu của bên thứ ba uy tín thì doanh nghiệp Nhật mới tin tưởng để trao đổi. Và khi đã có mối quan hệ hợp tác với đối tác Nhật thì cần chú trọng duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài, bền vững. Ngoài ra trong quá trình đàm phán/trao đổi, đối tác Nhật có thể đưa ra các yêu cầu như thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật. Bởi vì hiểu rõ về thị trường nên các đối tác Nhật mới đưa ra yêu cầu thay đổi như vậy và doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng tích cực đáp ứng những yêu cầu đó. Nếu những đòi hỏi phía đối tác đưa ra quá khắt khe, doanh nghiệp Việt Nam có thể trao đổi lại một cách cụ thể với phía đối tác Nhật để tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp nhất.

- Tận dụng các cam kết cắt giảm thuế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam và Nhật Bản cùng là thành viên: Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)...

Nguồn: vietnamexport.com (05/11/2021)

06:07' - 25/07/2016

BNEWS Vai trò của nhà nước kiến tạo là tạo nên sự phát triển bền vững cho một quốc gia, với trọng tâm là phát triển kinh tế.

Sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia từng trải qua những giai đoạn vô cùng khó khăn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… là minh chứng tiêu biểu cho thành công của mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Tuy nhiên, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển nếu áp dụng không đúng cũng có thể khiến nền kinh tế trì trệ, tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, qua đó làm chậm và chệch hướng quá trình phát triển của đất nước.

Minh chứng tiêu biểu


Nhật Bản là một trong những nước áp dụng thành công mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Sau năm 1945, Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, trong lúc nền kinh tế bị thiệt hại do chiến tranh.

Tuy vậy, với các chính sách hợp lý và nỗ lực mạnh mẽ, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi trong giai đoạn 1945-1954 và phát triển bùng nổ trong giai đoạn 1955-1973.
Sở dĩ Nhật Bản có được những thành tựu kinh tế-xã hội nổi trội là nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế, hay các mô hình kiến tạo nhà nước phát triển, chủ yếu là về công nghiệp.

Với cú hích từ sự phát triển của ngành công nghiệp, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế Nhật Bản đều tăng trưởng nhanh, qua đó đưa toàn bộ nền kinh tế phát triển mạnh. Như vậy, việc xây dựng các mô hình nhà nước kiến tạo phát triển chính là tiền đề cho sự hồi sinh của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), GDP của Nhật Bản trong giai đoạn 1960-2015 đạt bình quân 2.549,54 tỷ USD/năm. Năm 2015, GDP của Nhật Bản đạt 4.123,20 tỷ USD, tương đương 6,65% GDP của nền kinh tế thế giới.

Trong khi đó, mô hình nhà nước kiến tạo phát triển cũng là bí quyết mang lại thành tựu cho nền kinh tế lớn thứ tư châu Á là Hàn Quốc.

Sau cuộc chiến tranh năm 1953, Hàn Quốc phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề và là nước nghèo nhất thế giới trong khoảng một thập niên. Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc còn thấp hơn cả một số nước châu Mỹ và Nam Sahara châu Phi.
Trước tình hình khó khăn trên, từ năm 1960, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển đối với các doanh nghiệp trong nước với sự can thiệp hợp lý của chính phủ vào nền kinh tế, nhất là ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, ô tô, xây dựng…

Trong thập niên 1960, sự hỗ trợ của chính phủ dưới dạng các khoản vay, đảm bảo và giãn thuế đã cho phép các công ty tăng trưởng mạnh mẽ. Tiếp đó, Chính phủ Hàn Quốc quyết định đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất.

Cụ thể, Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ phát triển các tập đoàn kinh tế lớn như Samsung, Daewoo..., từ đó trở thành động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc.
Kinh tế Hàn Quốc đã từ một trong những nước nghèo nhất thế giới vươn lên trở thành một trong những nước phát triển đáng nể. Cuối thập niên 1990, Hàn Quốc là một trong những nước có nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu thế giới.

Theo số liệu của WB, GDP của Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-2015 đạt bình quân 387,09 tỷ USD/năm và riêng năm 2015 đạt 1.377,87 tỷ USD.
Tiền đề phát triển
Khi nói đến nhà nước kiến tạo phát triển tức nhắc tới năng lực và quyền lực của nhà nước. Năng lực của nhà nước càng cao thì khả năng hoạch định và thực hiện các chiến lược càng tốt.

Nhà nước kiến tạo phát triển nắm vai trò quan trọng trong điều tiết kinh tế vĩ mô, đảm bảo cân bằng giữa sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và quá trình tự vận động của nền kinh tế thị trường.

Đối với các nước công nghiệp hóa muộn, việc xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển sẽ rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Điểm đáng chú ý là điều kiện tiên quyết để xây dựng mô hình phát triển này là phải có đội ngũ lãnh đạo và chuyên gia hoạch định chiến lược tài giỏi, tận tụy và tâm huyết với sự phát triển kinh tế của đất nước, luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.Việc cải cách bộ máy của chính phủ để đủ sức vận hành nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu là một yêu cầu cấp bách. Khi đã thiết kế bộ máy chính phủ phù hợp, chính phủ hoạt động như thế nào để có hiệu lực và hiệu quả là một câu hỏi cần phải có lời giải.

Chất lượng thể chế và nguyên tắc thị trường là hai động lực căn bản tương tác chặt chẽ với nhau trong tạo nên sức phát triển lâu bền của một quốc gia.

Trong hai động lực căn bản này, chất lượng thể chế có vai trò then chốt quyết định chất lượng hoạt động của các nguyên tắc thị trường, và từ đó quyết định tương lai phát triển của quốc gia.Trong công cuộc phát triển, mỗi quốc gia đang phát triển đều trải qua thời điểm then chốt trong lựa chọn xây dựng thể chế phát triển. Quyết định lựa chọn xây dựng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển yêu cầu nỗ lực nâng cao chất lượng thể chế và xem đây như một trong những yếu tố nền móng cốt yếu cho toàn bộ công cuộc phát triển.

Để xây dựng được một hệ thống thể chế phù hợp, với chất lượng cao là rất khó khăn, đòi hỏi sự hội tụ của rất nhiều các yếu tố trong hệ thống chính trị, xã hội của một quốc gia, cũng như những tác động khách quan từ bên ngoài. Đó cũng là nguyên nhân mà không phải quốc gia nào áp dụng mô hình này cũng thu được thành công.