Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Tây Bắc là một vùng đất xinh đẹp, thơ mộng với những bản làng dân tộc thiểu số mang đậm bản sắc văn hóa. Một trong những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này chính là nghề dệt thổ cẩm. Những sản phẩm thổ cẩm của người dân Tây Bắc không chỉ đẹp mắt, tinh xảo mà còn mang đậm giá trị truyền thống.

15/11/2023

Nếu có dịp ghé thăm Tây Bắc, bạn đừng quên ghé thăm những làng dệt thổ cẩm để tìm hiểu về nghề truyền thống này và mua những món đồ lưu niệm độc đáo về làm quà.

Một số làng dệt thổ cẩm nổi tiếng ở Tây Bắc

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024
Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

(Vẽ hoa văn trên vải thổ cẩm của người Mông ở làng dệt thổ cẩm Cát Cát - Ảnh: Sưu tầm)

Tây Bắc có rất nhiều làng dệt thổ cẩm nổi tiếng, mỗi làng lại có những nét đặc trưng riêng.

- Làng dệt thổ cẩm Nà Sản (Sơn La)

Làng Nà Sản là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Thái. Nghề dệt thổ cẩm ở đây đã có lịch sử hơn 300 năm. Sản phẩm thổ cẩm Nà Sản có hoa văn tinh xảo, màu sắc hài hòa, mang đậm bản sắc văn hóa của người Thái.

- Làng dệt thổ cẩm Cát Cát (Lào Cai)

Bản Cát Cát là một trong những làng du lịch cộng đồng nổi tiếng nhất Sapa. Du lịch Sapa đến với bản Cát Cát, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên thơ mộng mà còn có cơ hội tìm hiểu về nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người H'Mông.

- Làng dệt thổ cẩm của người Thái - Mường Lò (Yên Bái)

Nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Mường Lò có từ lâu đời. Những sản phẩm dệt thổ cẩm là vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Nó gắn bó với mỗi người dân từ lúc sinh ra, đến lúc lập gia đình và những lúc cuối đời. Phụ nữ Thái ở Mường Lò - Nghĩa Lộ rất khéo tay trong việc thêu, dệt thổ cẩm. Hiện tại, ở thị xã Nghĩa Lộ có khoảng hơn 600 hộ, với hơn 1.000 lao động trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm may mặc bằng vải thổ cẩm.

- Làng dệt vải lanh ở Sin Suối Hồ (Lai Châu)

Có dịp du lịch Tây Bắc khám phá các làng nghề dệt thổ cẩm ở Lai Châu, bạn hãy đến Sin Suối Hồ - một bản du lịch cộng đồng nổi tiếng để tìm hiểu về nghề dệt vải lanh của đồng bào dân tộc Mông. Khác với nghề dệt lanh ở nhiều nơi khác, người Mông tại Sin Suối Hồ sử dụng những tảng đá lớn để vải được trơn nhẵn, mịn bóng và để các họa tiết hoa văn, con vật... bằng sáp ong càng hiện lên một cách rõ nét trên nền vải, tạo nên những sản phẩm rất chất lượng.

Mua đồ lưu niệm thổ cẩm về làm quà

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024
Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

(Ví cầm tay, khăn choàng là các vật dụng được nhiều người chọn mua làm quà du lịch Tây Bắc- Ảnh: Sưu tầm)

Đến thăm những làng dệt thổ cẩm Tây Bắc, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những sản phẩm thổ cẩm độc đáo mà còn có cơ hội mua đồ lưu niệm thổ cẩm về làm quà cho người thân, bạn bè.

Tùy theo sở thích và nhu cầu của mình, khách du lịch Tây Bắc có thể lựa chọn những sản phẩm thổ cẩm phù hợp như:

- Quần áo thổ cẩm: Đây là sản phẩm thổ cẩm được nhiều du khách yêu thích. Quần áo thổ cẩm có nhiều kiểu dáng, mẫu mã đa dạng, phù hợp với mọi lứa tuổi và giới tính.

- Ví thổ cẩm: Ví thổ cẩm là một món đồ lưu niệm nhỏ gọn nhưng vô cùng ý nghĩa. Ví thổ cẩm có nhiều màu sắc, hoa văn khác nhau, mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số Tây Bắc.

- Khăn thổ cẩm: Khăn thổ cẩm là một món đồ thời trang được nhiều người yêu thích. Khăn thổ cẩm có nhiều màu sắc, họa tiết bắt mắt, phù hợp với mọi phong cách thời trang.

- Đồ trang trí thổ cẩm: Đồ trang trí thổ cẩm như khăn trải bàn, vỏ gối, tranh thêu thổ cẩm... là những món đồ lưu niệm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa Tây Bắc.

Lưu ý khi mua đồ lưu niệm thổ cẩm về làm quà trong chuyến du lịch Tây Bắc

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024
Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

(Người thợ dệt ở Sin Suối Hồ lăn đá để những sợi lanh được mềm ra- Ảnh: Sưu tầm)

Khi mua đồ lưu niệm thổ cẩm ở Tây Bắc, bạn cần lưu ý một số điều sau:

- Chọn mua sản phẩm ở những địa chỉ uy tín: Sản phẩm thổ cẩm tại các làng dệt truyền thống thường có chất lượng tốt, giá thành hợp lý.

- Kiểm tra kỹ chất lượng sản phẩm: Trước khi mua, bạn nên kiểm tra kỹ chất lượng sản phẩm như độ bền, màu sắc, hoa văn...

- Tham khảo ý kiến của người dân địa phương: Trước khi mua hàng, bạn nên tìm hiểu về giá cả của sản phẩm để tránh bị mua hớ. Người dân địa phương sẽ giúp bạn lựa chọn được những sản phẩm đẹp, chất lượng và phù hợp với nhu cầu sử dụng.

Làng dệt thổ cẩm Văn Giáo thuộc xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Thổ cẩm Văn Giáo mang nét đẹp và chiều sâu văn hoá giàu bản sắc của thổ cẩm dân tộc Khmer.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Thổ cẩm Văn Giáo rất đa dạng và phong phú, màu sắc hài hòa, hoa văn sắc sảo. Được vậy là do các nghệ nhân biết kết hợp giữa phong cách truyền thống và kỹ thuật hiện đại. Nét độc đáo về kỹ thuật nhuộm của làng nghề Văn Giáo là dùng các loại thuốc nhuộm theo phương pháp cổ truyền có nguồn gốc từ thiên nhiên giúp cho lụa óng ả, mượt mà, trang nhã và bền, không bị sùi lông.

Trước khi nhuộm tơ, người thợ dệt phải định hình sẵn trong đầu những mẫu hoạ tiết hoa văn dự định dệt rồi mới mắc những lọn tơ thành mành treo trên cột nhà để phân phối màu. Nhuộm bao nhiêu màu thì phải đánh dấu bấy nhiêu đoạn sợi. Sau đó mới dùng mảnh nilon buộc kín thành từng khúc. Nhuộm xong màu nào, lấy nilon bó đoạn đó lại và tiếp tục mở đoạn khác ra để nhuộm màu khác. Công đoạn nhuộm màu cho mỗi một tấm vải thổ cẩm có khi phải mất cả tháng trời mới xong.

Quy trình nhuộm tơ đã phức tạp như vậy, sang quy trình dệt còn rắc rối hơn nhiều. Dệt lụa thổ cẩm để làm xà rông hoặc khăn choàng, người Khmer thường sử dụng kỹ thuật dệt 3 lớp sợi tơ với 3 màu khác nhau. Loại thổ cẩm này nếu nhìn ngang sẽ thấy màu xanh, nhìn nghiêng bên trái thấy màu cam, nghiêng bên phải thấy màu đỏ. Còn loại thổ cẩm làm bức hoạ hoặc khăn trải bàn, do mẫu hoa văn thường phỏng theo các tích truyện cổ (tuồng cổ) nên kỹ thuật dệt phức tạp hơn. Người giỏi nghề cũng phải làm cả năm trời mới hoàn thành được tấm thổ cẩm có cốt truyện sinh động

Phụ nữ Khmer dùng thổ cẩm để may áo cưới, mặc đi chùa, trang trí nơi thờ phượng và làm khăn đội đầu. Các cô gái khoác tấm lụa lên mình không những vẻ đẹp tôn được lên mà còn cảm giác như có đức Phật che chở và được hưởng phước lành.

Hiện nay, ngoài việc tiêu thụ trong nước, thổ cẩm Văn Giáo còn được xuất khẩu sang các nước: Mỹ, Úc, Pháp, Thái Lan, Campuchia với thương hiệu Silk Khmer.

LỤA TÂN CHÂU

Lụa Tân Châu (An Giang) từ lâu đã nổi tiếng ở trong nước và nước ngoài. Không biết nghề tầm tang, canh cửi, tơ lụa ở đây có từ bao giờ, chỉ biết rằng nói về nghề dệt thủ công cổ truyền của Việt Nam thì Hà Đông ở phía Bắc và Tân Châu ở phía Nam xưa nay vẫn được coi là hai trung tâm dệt lớn nhất…

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Ngược dòng thời gian, vào đầu thế kỷ 20, ở Nam Bộ đã có nhiều cơ sở tơ tằm dệt lụa rất thịnh hành. Thời đó, tơ lụa của Tân Châu làm ra không kịp bán, từng xuất cảng qua Campuchia, Pháp. Dọc theo hai bên bờ Sông Tiền, Sông Hậu từ biên giới Campuchia đến Tân Châu, Tân An, Chợ Mới, nhất là các làng Tân An, Vĩnh Hòa (Tân Châu), Long Điền, Chợ Thủ (Chợ Mới), đâu đâu cũng bạt ngàn những bãi dâu, những nong tằm đang kỳ chín rộ. Dưới sông, nhà bè chen chúc thành một làng nổi. Sát bờ nước là những vườn dâu xanh ngát. Hai bên đường, nhà san sát, nhìn vào thấy những khung cửi, những quay tơ ánh vàng và nhưng cô thợ dệt xinh xắn khắp các làng Tân An, Vĩnh Hòa… (Tân Châu), rồi Long Điền, Chợ Thủ (Chợ Mới) giờ nào cũng nghe tiếng lách cách đưa thoi…

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Người dân Tân Châu rất tự hào về quê lụa vang danh của mình với các sản phẩm lụa có hoa văn đẹp, vóc lụa mềm óng ả, màu sắc không phai được nhuộm từ các loại chât liệu tự nhiên như chàm, vỏ đước… Tân Châu cũng là quê hương nổi tiếng với mặt hàng Mỹ A “độc nhất, vô nhị”, mà bất luận người phụ nữ nào hồi đầu thế kỷ XX cũng đều mơ ước, với màu đen bóng, nhuộm từ trái mặc nưa có nhiều đặc tính quý như: dai, bền, mềm mại, nhẹ, hút ẩm cao, mà chưa có loại tơ nào qua mặt được. Chất liệu lụa Tân Châu thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, không bị hấp hơi như một số loại vải bằng sợi nylon, có lẽ vì vậy người ta gọi lụa Tân Châu là “Nữ hoàng” của các loại tơ.

Tuy nhiên để có được những vóc lụa đẹp là cả một kỳ công, phải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ từ 20 ngày đến một tháng, tùy theo thời tiết mà không phải nơi đâu cũng làm được. Thoạt tiên là chải cửi, rồi đến xe tơ, chọn sợi… Dưới bàn tay tinh tế của người thợ, từng sợi tơ được lựa chọn kỹ lưỡng bởi chỉ một sợi to hơn cũng sẽ làm tấm lụa không còn mịn màng nữa. Sau khi dệt thành tấm, lụa sẽ được ngâm, xả, phơi khô, ủ nhựa cây rừng, nhuộm mầu, phơi nắng rồi lại nhuộm lần thứ hai… Nắng để phơi lụa phải là thứ nắng dịu để khỏi làm hư lụa. Nhựa cây rừng dùng để ngâm ủ lụa cũng phải được lấy đúng mùa, lụa mới ra đúng màu sắc đã ấn định. Được làm hoàn toàn thủ công, không hề sử dụng chất hóa học nên lụa bền chắc, óng ả và vẹn nguyên qua dòng chảy của thời gian.

Nhưng từ khi vải dệt trên thị trường, đặc biệt là các nguồn vải nhập khẩu từ Trung Quốc và Thái Lan trở nên đa dạng hơn với nhiều chủng loại khác nhau và giá thành rẻ, thì lụa Tân Châu đã đứng trước những khó khăn thực thụ. Những người thợ dệt chân chất chưa có nhiều kinh nghiệm để chủ động quảng bá các sản phẩm lừng danh của mình đến với khách hàng gần xa. Chỉ gần đây, một số khách hàng người Pháp tình cờ nhận ra được vẻ đẹp hoàn mỹ của lụa Tân Châu đã đến đặt vóc lụa Mỹ A cung cấp cho thị trường thời trang của Châu Âu thì người thợ dệt Tân Châu mới thực sự càng tin tưởng hơn vào thị trường lụa chất lượng cao mà cha ông đã truyền lại và hy vọng sẽ được hợp tác nhiều hơn nữa với bạn bè trên thế giới để đưa nét quý phái của lụa Mỹ A đến với muôn người./.

Làng nghề dệt vải Lục Nam

Cùng với thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế xã hội, trong những năm gần đây Bắc Giang đã quan tâm tới việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống nhằm tạo việc làm, thu nhập cho người dân. Đặc biệt tại các vùng dân tộc thểu số khôi phục và phát triển nghề truyền thống còn lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống của các tộc người đang sinh sống trên địa bàn và tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Bản Khe Nghè xã Lục Sơn huyện Lục Nam, có có 60 hộ gia đình với 276 nhân khẩu,100% là đồng bào dân tộc Cao Lan.Trước đây bất kể người con gái Cao Lan nào cũng đều rất khéo thuê thùa, dệt vải và bản Khe Nghè vốn được biết đến với nhiều nghề truyền thống như dệt vải, làm giấy dó và bốc thuốc nam. Tuy nhiên nét văn hóa truyền thông này đã dần bị mai một. Nhằm khôi phục nghề truyền thống tại đây UBND huyện Lục Nam đã đầu tư triển khai đề án”Khôi phục nghề dệt vải truyền thống của người dân tộc Cao Lan”. Ông Phạm Văn Thể Chủ tịch UBND xã Lục Sơn cho biết lúc đầu triển khai đề án cũng gặp phải một số khó khăn do từ nhiều năm nay nghề dệt vải ở đây đã không còn được duy trì song cùng với sự nỗ lực của chính quyền, sự tâm huyết với nghề của các nghệ nhân nên nghề dệt vải truyền thống của người Cao Lan đã được khôi phục. Các nghệ nhân trong bản đã bỏ rất nhiều công sức tìm lại những mẫu trang phục xưa, rồi mầy mò nhớ lại các công đoạn se sợi dệt vải, may áo, yếm, dải, thắt lưng, khăn ngang, khăn vuông, xà cạp….để hoàn thiện một bộ trang phục truyền thống của người dân tộc Cao Lan sau đó nghề được truyền dạy cho con cháu. Một trong những nghệ nhân tâm huyết với việc tìm lại nghề truyền thống của dân tộc Cao Lan ở Khe Nghè phải kể đến bà Trạc Thị Ngọt. Vốn là người con gái Cao Lan bà Ngọt đã được mặc những trang phục truyền thống đẹp nhất của dân tộc mình khi về nhà chống. Nên dù đã cao tuổi song bà vẫn miệt mài, tâm huyết đi tìm lại nghề truyền thống. Bà đã từng lặn lội đến nhiều nơi có người Cao Lan sinh sống ở các tỉnh phía Bắc để học hỏi, sưu tầm tìm mượn những mẫu áo váy của người Cao Lan xưa về nghiên cứu, ghép nối và truyền dạy cho con cháu.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cao Lan đã được khôi phục từ năm 2007- 2008 thông qua cách truyền nghề trực tiếp. Những nghệ nhân trong bản được mời đến để dạy nghề và truyền kinh nghiệp cho lớp trẻ, nhiều chị em phụ nữ trong bản đã rất hào hứng tham gia khôi phục lại nghề dệt truyền thống của dân tộc mình. Bà Tống Thị Lâm – Chi hội trưởng chi hội phụ nữ thôn Khe Nghè cho biết hầu hết chị em trong chi hội phụ nữ đã tham gia các lớp truyền nghề, nhiều chị em đã thành thạo các công đoạn se sợi, dệt vải và đã may được những bộ áo yếm truyền thống, những dải thắt lưng, sà cạp, những vật dụng nhỏ trang trí bằng chất liệu vải truyền thống của người Cao Lan.

Việc khôi phục thành công nghề truyền thống đặc sắc tại Khe Nghè đã có một ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Cao Lan, đồng thời góp phần tạo ra những sản phẩm đặc sắc của địa phương phục vụ phát triển du lịch của tỉnh. Bản Khe Nghè đã có 15 khung thêu và 30 người thợ lành nghề… Tuy nhiên hiện nay sau khi hết thời gian thực hiện của dự án, nghề dệt vải ở Khe Nghè lại đang đi vào ngõ cụt. Bài toán muôn thủa thiếu đầu ra cho sản phẩm đã khiến nghề dệt vải ở đây vừa được khôi phục đã lại có nguy cơ tan rã. Để phát triển nghề dệt truyền thống của người Cao Lan một cách bền vững và lâu dài các vấn đề về đầu tư sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm và thu nhập của người lao động cần tiếp tục được quan tâm./.

Làng nghề dệt vải chàm – Bắc Cạn Dệt vải chàm là một nghề truyến thống, tồn tại lâu đời ở những vùng người Tày của tỉnh Bắc Cạn. Trong nền kinh tế thị trường, mặc dù các loại vải sản xuất công nghiệp đã len lỏi đến tận các bản làng vùng sâu, vùng xa, nhưng nghề dệt vải chàm truyền thống ở Bắc Cạn vẫn đang dược bà con các dân tộc nơi đây gìn giữ.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Ở xã Cao Tân, huyện Pác Nặm ngày xưa nhà nào cũng có một khung cửi dệt vải chàm. Vào mùa thu hoạch bông, nhà nhà lại mắc khung cửi để dệt vải. Cả xã luôn nhộn nhịp bởi tiếng thoi lách cách. Mọi đồ dùng như váy, áo, gối, chăn và cả của hồi môn cho con gái khi về nhà chồng đều làm từ vải chàm tự dệt. Nhưng mấy năm gần đây nhiều hộ dân đã không còn trồng bông, những khung cửi cũng bị lãng quên, một số hộ đã phá để làm củi. Số hộ gìn giữ được nghề dệt vải chàm truyền thống còn rất ít.

Trong số ít hộ còn giữ được nghề dệt vải chàm có gia đình bà Mô Thị Ngọ ở bản Nà Quạng, xã Cao Tân. Bà Ngọ tâm sự: “Thời chúng tôi, con gái khi về nhà chồng mà có nhiều vải chàm thì được coi là giỏi giang, chăm chỉ và được mọi người quý mến. Đó là nét đẹp của người phụ nữ Tày với nghề trồng bông dệt vải. Năm nay con gái tôi đi lấy chồng, tôi muốn nó phải tự dệt một đôi chăn, đôi gối, màn, tấm ri đô và chiếc địu con bằng vải chàm làm của hồi môn khi về nhà chồng”.

Để dệt được những tấm vải chàm mất khá nhiều công sức và qua nhiều công đoạn. Bông thu hoạch về được phơi qua mấy nắng rồi đem cán để tách riêng phần hạt và phần bông. Sau khi bông đã được cán thì đem bật và kéo thành những cuộn sợi nhỏ. Tiếp đó là hồ sợi, công việc khá cầu kỳ. Hồ được làm từ ngô, 1 kg sợi dùng 1 kg ngô xay vỡ đôi, vỡ ba, đem ninh nhừ rồi vắt bỏ phần bã. Sợi bông được ngâm với tinh chất ngô khoảng 2 giờ đồng hồ rồi đem phơi khô, đến khi nào những sợi bông tách nhau ra và cuốn thành những cuộn sợi dai và chắc. Tiếp đó là đưa lên khung cửi để dệt ra những tấm vải, tuy nhiên để có những tấm vải chàm thì cần phải qua bước nhuộm vải. Đây là công đoạn khá phức tạp, những cây chàm được lấy về ngâm cho nát nhừ và tinh lọc giữ lại phần tinh bột của chàm. Tinh bột chàm được đun sôi cùng với một số loại lá cây như cúc tần, chanh, thanh thảo, bưởi…, đến khi nước nhuộm nổi bọt mới được. Mỗi ngày vải được nhúng thuốc nhuộm ba lần, mỗi lần nhúng lại đem vải phơi khô rồi lại nhúng vào thuốc nhuộm. Sau ba lần nhuộm, vải được phơi khô và giặt sạch, sau một ngày lại lặp lại công việc nhuộm vải của ngày đầu tiên và cứ đủ 5 lần ngâm, giặt, phơi thì được một tấm vải chàm. Vải chàm tốt là vải có màu sắc đen ánh đỏ và rất bền.

Màu sắc và hoa văn vải chàm từ lâu đã làm nên nét văn hóa đặc trưng của vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc gìn giữ, bảo vệ và phát huy những nghề truyền thống như nghề dệt vải chàm không chỉ là của một cá nhân, mà cần phải có định hướng của các ngành, các cấp Bắc Cạn, vừa nhằm giúp bà con xóa đói, giảm nghèo, vừa giữ gìn những nét văn hóa độc đáo cho các thế hệ mai sau.

Làng nghề dệt vải của người dân tộc Dao

Nghề dệt vải của người dân tộc Dao ở tỉnh Bắc Kạn, vẫn giữ được nét văn hoá để phục vụ cho gia đình, lấy chàm nhuộm vải, làm thành những hoa văn cực nhỏ.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Cách làm là lấy 2 miếng ván gỗ khắc thành hoa nhỏ để kẹp vải, nấu sáp chảy ra, rồi trút vào trong lỗ khắc, sau mới bỏ miếng vải ra, lấy vải nhúng vào chàm. Vải đã thấm chàm rồi thì đem nấu cho chảy sáp ra, được hoa văn sặc sỡ rất tinh tế, đẹp và sáng sủa.

Cho đến nay ở tỉnh Bắc Kạn nhóm người Dao Tiền vẫn còn lưu giữ nghề này khá đầy đủ, một số nhóm người Dao như: Người Dao Đỏ, người Dao áo dài… Từ lâu đã quen với nghề dệt vải. Phụ nữ Dao Tiền thì phải biết dệt vải và dệt cả hoa văn trên các dây thắt lưng của mình. Phụ nữ Dao Đỏ lại có nghề làm dây túi (Sùi địp). Các kiểu dệt thắt lưng của người Dao Tiền, dệt dây túi của người Dao Đỏ rất đơn giản nhưng đòi hỏi tính kiên nhẫn của người phụ nữ cùng với sự khéo léo trong quá trình dệt vải.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Đặc biệt, việc tạo ra trang phục của người Dao là nghệ thuật thêu hoa văn trên vải của người phụ nữ. Họ chỉ thêu theo trí tưởng tượng chứ họ không bao giờ vẽ mẫu sẵn. Riêng đối với nghệ thuật tạo hoa văn trên váy của người Dao Tiền Bắc Kạn hiện nay vẫn giữ được nét cơ bản. Đó là nghệ thuật tạo hoa văn qua việc chấm, vẽ bằng sáp ong. Tuy nhiên, người dao chỉ dệt vải trong lúc nhàn rỗi.

Làng dệt thổ cẩm Chăm – BÌNH THUẬN Nghề dệt thổ cẩm của đồng bào người Chăm, tập trung 2 xã Phan Hòa của huyện Bắc Bình. Theo truyền thuyết, mẹ xứ sở Pôlnư NaGar dạy cho phụ nữ Chăm nghề dệt vải để mặc và tôn vinh sắc đẹp.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Hiện nay ở làng dệt thổ cẩm Phan Hòa vẫn còn những chiếc khung dệt cổ truyền bằng gỗ gõ, gỗ trắc được đóng cách đây hàng trăm năm. Các giàn cán bông, cung bắn bông, xa quay kéo sợi vẫn còn thông dụng. Người dân hái Bông về phơi khô, cán lấy hột, dùng cung bắn cho bông bung ra trải thành lớp mỏng, lấy thanh tre cuộn lại thành con bông rồi móc vào xa quay kéo sợi. Muốn sợi chắc, không bị đứt, bị xù lông, khi dệt đem ngâm nước cơm, sau đó chải sợi, phơi khô, đánh óng. Muốn sợi có màu lục thì nhuộm với cây tràm, màu đỏ nhuộm với là trâm bầu, màu đen lấy từ cây buông, màu vàng lấy từ cây trừng… khi dệt người thợ mắc sợi trên khung đưa tay lòn con thoi qua lại. Muốn tạo mô típ hoa văn, người thợ lành nghề có thể, cách điệu với những họa tiết mang đậm bản sắc văn hóa Chăm. Từ 4 hoa văn cổ truyền: xanh két, vàng cúc, trắng, đen đi trên nền đỏ, người thợ có thể tao ra các loại sản phẩm như túi xách, ví, khăn, dây thắt lưng… thích hợp với nhu cầu và thị hiếu du khách.

Nghề dệt thổ cẩm của người Tày Cao Bằng

Không ai rõ nghề dệt thổ cẩm của người Tày Cao Bằng có từ bao giờ, mà chỉ biết những tấm vải thổ cẩm họ dệt ra từ lâu đã nổi tiếng với hoa văn đẹp mắt, mang đậm sắc thái dân tộc.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. Tuy nhiên, do giá tơ tằm đắt nên ngày nay người dệt thổ cẩm dùng len có chi phí thấp hơn để thay thế. Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công và chính đôi tay khéo léo và sự nhẫn nại của người phụ nữ Tày mà những tấm thổ cẩm nên hình nên dạng vô cùng đặc sắc. Từ những tấm thổ cẩm tự tạo ấy người phụ nữ Tày may thành mặt chăn, mặt địu, khăn trải giường và nhất là những bộ trang phục đặc sắc của dân tộc. Ở Cao Bằng, nghề dệt thổ cẩm phát triển mạnh ở xã Đào Ngạn, Phù Ngọc (huyện Hà Quảng) và khu vực thị trấn Nước Hai (huyện Hoà An). Các sản phẩm thổ cẩm hiện nay cũng khá phong phú, đường nét, màu sắc đẹp hơn và là món quà lưu niệm ý nghĩa mà các du khách thường chọn mua để tặng người thân và bạn bè khi có dịp đến với Cao Bằng.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Làng nghề thổ cẩm Tây Nguyên – ĐẮKLẮC

Tây Nguyên, một dải Trường Sơn xanh thẳm với những cánh rừng đại ngàn nguyên sinh, trắng xóa bao dòng thác bạc với một nền văn hóa độc đáo và phong phú. Mỗi bước chân ta đi đều có thể bắt gặp ở mọi nơi, mọi lúc cái đẹp hiển hiện nguyên sơ mà kỳ bí của núi, của sông,…Từ những căn nhà “dài hơn một tiếng chiêng ngân” của người Ê Đê đến những mái nhà rông cao vút tựa dáng lưỡi rìu tạc vào bầu trời xanh thăm thẳm của cao nguyên của người Bana, Xê Đăng hay nét uyển chuyển trong điệu múa xoang của những chàng trai, cô gái Ba Na và có lẽ trên hết là những sắc màu quyến rũ của thổ cẩm Tây Nguyên…

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Đã thành truyền thống, bất cứ cô gái Tây Nguyên nào khi lớn lên đều được người mẹ bày cho cách dệt vải để không chỉ dệt cho mình những bộ váy đẹp mà cho cả gia đình sau này. Những bộ váy đẹp nhất được dành cho những ngày lễ hội, cưới xin khi dân làng tụ họp vui vẻ trong tiếng cồng chiêng, cô gái nào có bộ váy đẹp cũng được coi là người chăm chỉ giỏi giang.

Để có những tấm vải thổ cẩm đẹp với những đường nét, hoa văn độc đáo là cả một quá trình lao động khá công phu và mệt nhọc từ trồng bông, cán bông, kéo sợi, nhuộm màu và dệt. Khung dệt của đồng bào Tây Nguyên tuy đơn giản nhưng rất đa dạng, có loại chuyên dành cho việc dệt váy, dệt chăn, lại có loại chuyên dệt những tấm vải có kích thước nhỏ hơn như là túi thổ cẩm, là khăn địu, là khố…

Dưới đôi bàn tay uyển chuyển của người thiếu nữ, những họa tiết đều mang tính cách điệu cao và thường thể hiện bằng các hoa văn chấm dải, gồm các mô típ: bông hoa, con chim, con ba ba, chiêng, ché, ngà voi…dần được hiện lên với nhiều sự phối trộn màu sắc tinh tế khác nhau. Theo quan niệm của các dân tộc Tây Nguyên: nền vải màu đen đặc trưng cho đất đai mà cả cuộc đời họ gắn bó – lúc sống cũng như lúc chết; màu đỏ biểu tượng cho sự đam mê, cho sự vươn lên, cho khát vọng, tình yêu; màu xanh là màu của đất trời, cây lá; màu vàng là màu của ánh sáng, là sự kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Với người Êđê, màu đen và đỏ là 2 màu được ưa chuộng nhất, còn đối với người Thượng là sự kết hợp các sợi màu đỏ, vàng rực rỡ ở “gam màu” nóng tương phản rõ nét với nền đen. Cũng có màu trắng nhưng dường như nó xuất hiện đột khởi nhắc nhở sự tiềm ẩn như đã mờ phai theo thời gian năm tháng để phù hợp với hoàn cảnh sống, canh tác, nơi núi rừng. Dày và thô – rất “rừng”, là hàng người Kơ Ho, người Lạch còn vải dệt của một số dân tộc phía Nam Cao Nguyên hay ven biển như những dân tộc Chàm, Châu Ro, người Stiêng lại lấy màu nền trắng làm chủ đạo, tựa như để hòa lẫn với sóng biển bạc đầu…Công phu, ấn tượng, hoa văn tỉ mỉ và có độ dày đáng “nể”. được ngoại khách chuộng nhất có lẽ là hàng của người Mạ. Nếu người Anh, Đức, Bỉ thích thổ cẩm dân tộc Mạ, Kơ Ho thì người Hà Lan, Nhật lại chuộng hàng người Chàm.

Đến Tây Nguyên hôm nay, du khách sẽ được tận hưởng những âm sắc ngân nga của những điệu cồng chiêng, đắm mình và ngất ngây trong những chén rượu cần, để rồi sẽ chẳng bao giờ quên những nét chắt lọc cả tinh hoa của đất, của trời, của rừng xanh, thác bạc trong mỗi mặt hàng thổ cẩm Tây Nguyên./.

Làng nghề dệt thổ cẩm – ĐẮC NÔNG Nghề dệt thổ cẩm – nét văn hóa độc đáo của người dân tộc M’Nông

Nói đến Đăk Nông người ta thường nghĩ đến một nền văn hóa phong phú và đa dạng với các lễ hội, sử thi, không gian văn hóa cồng chiêng. Trong đó, nghề dệt thổ cẩm- một nghề đã tồn tại từ lâu đời và đem đến những lợi ích cho đồng bào dân tộc thiểu số cũng là nét văn hoá riêng của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Những tấm Thổ cẩm được dệt với nhiều hoa văn, họa tiết thể hiện bàn tay khéo léo của người phụ nữ đồng bào dân tộc và làm nên các trang phục đẹp nhiều màu sắc.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Hiện nay, ở Đăk Nông có nhiều làng nghề dệt thổ cẩm được lưu giữ và phát triển như: Bon tại xã Đắk Nia, tx Gia Nghĩa, bon Đăk Sô, xã Quảng khê, và một số bon làng tại huyện Cư Jút. Theo truyền thống của đồng bào M’Nông, người ta thường chọn nền vải là màu đen, tượng trưng cho đất; màu đỏ tượng trưng cho sự dũng cảm, sức mạnh siêu nhiên, khát vọng tình yêu; màu xanh tượng trưng cho màu của trời, sông núi; màu vàng tượng trưng cho sự hài hoà, mơ ước, khát vọng trong cuộc sống của con người Tây Nguyên. Nguyên liệu thường được dùng để dệt váy, áo thổ cẩm của người M’Nông là những nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên như bông, vỏ cây, rễ cây… Hoa văn trang trí đường viền ở chân váy, cổ áo, tay áo… có dạng hình thoi, tam giác được kết lồng vào nhau và điểm xuyến bằng nhiều hình ảnh từ thiên nhiên, hoa, chim, thú …thể hiện mối quan hệ cộng đồng giữa con người với con người và con người với thiên nhiên.

Đây là một nghề truyền thống đã có từ lâu đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của buôn, bon làng. Khi làm nghề này, người ta đã sử dụng được nguồn nguyên liệu tại chỗ, tạo công ăn việc làm, mang lại thu nhập cho gia đình tại địa phương. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến cho nghề dệt thổ cẩm cũng như nhiều nét văn hóa khác của người M’nông bị mai một dần. Để bảo tồn nghề truyền thống độc đáo này, cần có những chương trình, chính sách cụ thể như: xây dựng xưởng dệt tập trung, mở lớp đào tạo, đưa những chị em có tay nghề lâu năm đi tham quan, học tập các mô hình ở các địa phương khác…

Khôi phục các làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch cũng là một định hướng phát triển ngành du lịch của tỉnh nhà. Những chiếc khăn, khố, váy, áo choàng… được thêu hoa văn, màu sắc sặc sỡ từ chất liệu thổ cẩm góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm du lịch của Đắk Nông, níu giữ du khách khi đến với vùng đất này để chiêm ngưỡng tìm hiểu, khám phá nét độc đáo trong từng trang phục và chọn cho mình những món quà lưu niệm độc đáo, ý nghĩa sau một chuyến đi xa….

Làng nghề dệt thổ cẩm Na Sang II – ĐIỆN BIÊN

Các sản phẩm thêu và dệt thổ cẩm là những sản phẩm thủ công điển hình của vùng Tây Bắc. Sự phát triển bền vững của thổ cẩm và thêu không những sẽ đóng góp cho việc cải thiện cuộc sống của cư dân khu vực mà còn cải thiện nền kinh tế khu vực nói chung. Trước đây, một số dự án đã được thực hiện trong lĩnh vực này tuy nhiên những đóng góp đó vẫn còn rất hạn chế.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Thổ cẩm ở Điện Biên được dệt theo cách truyền thống bởi những người dân tộc thiểu số địa phương cho nhu cầu sử dụng của họ. Trong những năm gần đây, được sự hỗ trợ của chính phủ, một số thợ dệt địa phương được khuyến khích thành lập các hợp tác xã. Chính quyền địa phương và người dân đặt nhiều hi vọng trong thiết lập các mô hình phát triển dưới kế hoạch dự án được thiết kế tốt.

Bản Na Sang II có lịch sử lâu đời về nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Người dân dệt thổ cẩm chủ yếu cho nhu cầu sử dụng bản thân. Giá trị sản phẩm của họ đã được phân tích bởi nghiên cứu qui hoạch tổng thể về nghề thủ công năm 2004 của JICA. Thổ cẩm Na Sang II nay trở thành một trong những hợp tác xã điển hình nhất của tỉnh Điện Biên.

Thổ cẩm Na Sang II có nhiều ưu thế để phát triển như có các lao động có kĩ năng và văn hóa Lào độc đáo. Sự tự hào và đoàn kết giữa các xã viên ở Na Sang II cũng là những nhân tố tích cực cho sự phát triển các hoạt động của hợp tác xã. Ngoài ra, hợp tác xã cũng có đất và xưởng làm việc. Việc xúc tiến thương mại cũng có thuận lợi do hợp tác xã khá gần với Điện Biên Phủ, chỉ cách khoảng 40 phút đi ô tô.

Mặt khác, người dệt thổ cẩm ở Na Sang II hiện nay đang gặp khó khăn trong việc tiếp tục sản xuất. Việc dệt thổ cẩm tiêu tốn khá nhiều thời gian và công sức do phải dệt bằng tay với các khung dệt thủ công. Chi phí sẽ giảm đi nếu có khung dệt máy tự động. Mặc dù chất lượng sản phẩm dệt bằng tay được đánh giá tốt nhưng giá của sản phẩm tương đối cao và vì thế khó cạnh tranh được so với sản phẩm cùng loại khác có trên thị trường. Do giá cả của sợi vải nhập từ Lào khá cao trong thời gần đây nên giá bán của sản phẩm nay lại càng cao hơn so với trước. Đồng thời, các xã viên rất thiếu thông tin về thị trường dẫn tới hạn chế về ý tưởng để đa dạng hóa sản phẩm.

Tỉnh Điện Biên quyết tâm cao độ trong việc thiết lập mô hình phát triển nghề dệt thổ cẩm. Hợp tác xã thổ cẩm Na Sang là một trong những hợp tác xã điển hình ở Điện Biên được tổ chức bởi những người thợ lành nghề có khả năng sản xuất ra những sản phẩm với hoa văn độc đáo nếu được hỗ trợ kĩ thuật hợp lý. Thông qua việc phát triển mô hình, chính quyền địa phương sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm có giá trị ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Những kinh nghiệm này sẽ giúp cho việc xác nhận sự cần thiết của những bước phát triển tiếp theo và bảo tồn văn hóa dân tộc.

Làng thổ cẩm của người Ba Na – GIA LAI

Nghệ thuật trang trí của người Ba Na rất phong phú và độc đáo, thể hiện trên các loại hoa văn, hoạ tiết sống động trên trang phục, đồ đan.

Hoạ tiết thổ cẩm được sử dụng nhiều ở thổ cẩm (áo, váy, chăn, đồ đan). Người Ba Na thường sử dụng các màu: đen, đỏ, trắng, tạo ấn tượng mạnh mẽ. Hoạ tiết đối xứng phản ánh quan niệm về vũ trụ, lý âm dương, trời đất lấy thiên nhiên làm hình mẫu, thổ cẩm của người Ba Na không khác nào cảnh thiên nhiên thu nhỏ. Đó là cách điệu của hình học, cảnh núi rừng… mỗi người con gái Ba Na đều có nghệ thuật trang trí độc đáo thể hiện qua nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Hoa văn trên thổ cẩm làm màu sắc sặc sỡ, chủ yếu là chạy dọc theo chiều tấm vải, màu đen là màu chủ đạo gây ấn tượng mạnh mẽ về phong cách, đây chính là những hoa văn phản ánh đường nét văn hóa truyền thống và đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Ba Na. Thổ cẩm tươi sáng, rực rỡ bay bổng như ước mơ, khát vọng. Mỗi màu lại có tiếng nói riêng, màu đen tượng trưng cho đất rừng trù phú, màu đỏ của khát vọng và tình yêu. Khăn đội đầu của thiếu nữ mang trong mình một giai thoại về tình yêu, lòng thuỷ chung, ngoài ra chiếc khăn đội đầu làm cho duyên thêm các cô gái, những hàng cúc màu trắng, chuỗi cườm tua tủa, cúc bạc lung linh bao hàm sự ước mơ, hạnh phúc luôn đầy đủ.

Trải qua năm tháng cùng với sự giao lưu phát triển nghệ thuật trang trí của người Ba Na vẫn luôn được giữ gìn và phát huy, góp phần làm nên một bản sắc văn hóa đặc thù. Ngày nay đến với buôn làng của người Ba Na vẫn còn in đậm nghệ thuật trang trí thể hiện qua trang phục, đồ đan. Các sản phẩm được làm từ thổ cẩm đã trở thành hàng hóa thời mở cửa và được nhiều người ưa thích.

Làng nghề dệt Thổ Cẩm Gia Lai Địa chỉ: Xã GLar – Huyện Đắc Đoa – Tỉnh Gia Lai. Hiện nay, toàn tỉnh Gia Lai đang có nhiều làng nghề hoạt động, trong đó làng nghề dệt thổ cẩm ở xã GLar huyện Đắc Đoa là đi đầu và được duy trì trong thời gian dài (gần 10 năm). Mô hình dệt thổ cẩm nơi đây đã thu hút được hàng trăm chị em tham gia, góp phần tận dụng được lao động nhàn rỗi lúc hết mùa cũng như thu nhập cho mọi người nhưng… “Mọi người chỉ làm lúc hết mùa, nhưng cái bụng thích thì làm, còn không thì thôi. Mình giao vật liệu cho mọi người, khung dệt tự tìm, thời gian, mẫu mã thì còn tuỳ khả năng mỗi người nhưng không phải ai cũng có thể làm tốt, nhiều khi sản phẩm làm ra không thể dùng được nhưng mình vẫn phải trả tiền, biết làm sao được.” chị MLor tâm sự và bản thân chị cũng chỉ biết giao công việc và tìm thị trường tiêu thụ, còn việc ổn định, tổ chức công việc cho các chi nhánh của mình lao sao cho đạt kết quả tốt nhất thì MLor không biết.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Không như GLar, ở xã Biển Hồ (thành phố Pleiku) lại có cách đi riêng cho mình khi thành lập câu lạc bộ dệt thổ cẩm với 53 thành viên tham gia sáng lập. Hoạt động của CLB khá bài bản và quy cách với quy chế hoạt động, sinh hoạt hẳn hoi. Tại CLB này các chị em tham gia cũng đã tự nguyện trích tiền thu được từ chính sản phẩm của mình để đóng góp vào quỹ CLB nhằm hỗ trợ cho những chị em có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện tham gia, giúp họ an tâm gắn bó với nghề.

Ngoài 2 địa chỉ trên hiện nay tại các xã, huyện vùng sâu như huyện Kôngchro cũng đã hình thành làng thanh niên dệt thổ cẩm (ở làng Nghe Lớn, Nghe Nhỏ thị trấn Kôngchro), tổ hợp tác dệt thổ cẩm ở xã Ia Phìn (huyện Chư Prông), Ia Pếch (huyện Mang Yang)… cùng nhiều địa phương khác trong tỉnh cũng tự hình thành cho mình những làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống với sự tham gia của hàng trăm hộ gia đình, nhất là lớp thanh niên… Còn với các ngành, nghề khác như tạc tượng, đan lát… ở Gia Lai thì tương lai… chưa có câu trả lời. Ở cấp tỉnh thì thỉnh thoảng mới có một cuộc thi cho các nghệ nhân nhưng cũng không thu hút được đông đảo mọi người tham gia, ở huyện thì chờ cuộc thi tỉnh lại cử các nghệ nhân cũ đi thi. Việc đan lát hiện nay chủ yếu là từ các nghệ nhân già, lúc rãnh rổi lại đan lát để dùng trong gia đình chứ mọi người chưa có ý định làm sản phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa sản phẩm vươn ra thị trường.

Cái chung nhất ở các làng nghề vẫn là cá nhân tự phát, không có định hướng, mục tiêu rõ ràng, chủ yếu phục vụ nhu cầu của cá nhân, gia đình, việc phát triển này không biết là sẽ đi về đâu và liệu có tồn tại trong thời gian tới hay không nếu không có đột biến nào khác.

Định hướng cho làng nghề

Cần phải “chuyên môn hoá” cho các làng nghề, tổ, nhóm hay hợp tác xã (tương lai) để tạo niềm tin cho các hộ, cá nhân tham gia.

Mô hình GLar cũng loay hoay mãi tìm hướng đi mới đến giờ đã thấy tương lai sáng hơn với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương. Trước thực trạng “tự phát” của làng nghề huyện Đắc Đoa rất quan tâm và giúp đỡ để định hướng phát triển cho mô hình. Nhiều biện pháp hỗ trợ cho mô hình này đã được triển khai như cấp kinh phí để mở lớp dạy dệt thổ cẩm cho 50 chị em là người đồng bào dân tộc thiểu số có tuổi đời từ 15 đến 45, mời nghệ nhân có tay nghề tốt về hướng dẫn, tìm hướng đi cho dự án này, trong đó sẽ hình thành một mô hình hợp tác xã dệt thổ cẩm tại chính nơi đây từ đó hình thành một thương hiệu cho chính người dân nơi đây. Việc đào tạo cho học viên ở nơi đây rất căn bản để giúp mọi người vững tay nghề trước khi bước vào một môi trường làm việc mới khoa học theo hướng sản xuất hàng hoá đã được niềm tin cho mọi người.

Ngoài việc ổn định trong tổ chức, hiện nay bản thân mỗi cá nhân ở các mô hình cũng đã tự biết đổi mới để theo kịp nhu cầu của thị trường. Chị Rơ Lan Pel, Chủ CLB dệt thổ cẩm ở xã Biển Hồ cho biết: “Hiện nay các sản phẩm truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai như thổ cẩm, đan lát, tạc tượng rất phong phú và đang dạng. Ngoài các sản phẩm truyền thống, nghệ nhân các nơi còn tự mày mò, sáng tạo ra nhiều kiểu mới thu hút được đông đảo người xem, mua như áo, túi sách, đồ trang sức thổ cẩm…. Chị em ở câu lạc bộ ngoài việc làm ra sản phẩm thì cũng rất chú ý đến việc cho ra đời thêm nhiều mẫu mới mà nhu cầu đang cần, nếu thị trường có mẫu mới thì học hỏi. Mình không thể bị động mà phải tự thân vận động trước mới có thể đứng vững được như phải tự liên hệ và giới thiệu sản phẩm của mình cho các cửa hàng bán đồ lưu niệm, Trung tâm thương mại ở Pleiku”.

Một niềm vui cho những ai tâm huyết với nghề truyền thống, trong năm 2006 này tỉnh Gia Lai cũng đã quyết định đầu tư 6,5 tỷ đồng cho hai dự án dạy nghề là “Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề” và “Dự án đào tạo nghề cho nông dân và học sinh dân tộc thiểu số nội trú”, trong đó ưu tiên dạy các nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát…với sự đầu tư, giúp đỡ này tin rằng trong tương lai không xa nghề truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Gia Lai sẽ có vị trí xứng đáng trong xã hội. Theo ông Huỳnh Hữu Sâm, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến công tỉnh cho biết: “các giá trị truyền thống của đồng bào sẽ bị mai một nếu ta không có biện phát để bảo tồn và phát triển. Việc duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống không chỉ là việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân (thông qua bán sản phẩm, thu hút khách du lịch…) mà nó còn góp phần giáo dục thể hệ trẻ ở đồng bào các dân tộc nơi đây biết lưu giữ những giá trị tinh thần, là nét đẹp của văn hoá trong cồng động mình để sau này các thế hệ sau vẫn và sẽ được lớn lên trong môi trường mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc mình.

Làng nghề truyền thống tưởng chừng như ngủ yên nay đã trỗi dậy với sức sống mãnh liệt cùng niềm tin thắng lợi tại các buôn làng trong tỉnh Gia Lai.

Làng nghề thổ cẩm của người Lô Lô- HÀ GIANG Hai nhóm Lô Lô Hoa và Lô Lô Đen đều sử dụng phối hợp kỹ thuật chắp vải mầu có thêu khá tinh tế trong những khuôn thức bố cục chặt chẽ, có hòa sắc rực rỡ sáng, tươi của các mầu nguyên sắc được bố trí bên nhau làm rõ, làm tăng độ tương phản vốn có. Người Lô Lô Hoa sử dụng kỹ thuật trang trí chắp hình vải mầu nhiều hơn trên trang phục. Người Lô Lô Đen sử dụng kỹ thuật thêu nhiều hơn, dùng xen kẽ với chắp hình vải mầu, bố cục trang trí trang phục thoáng, nhẹ hơn. Cả hai nhóm đều thể hiện nhiều mẫu hình trang trí đặc sắc của các dân tộc có ngôn ngữ: nói tiếng Tạng-Miến ở phía Bắc nước ta.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Hình tượng thần vị Kết Dơ – cai quản vũ trụ, tạo ra con người; các hình tròn có chữ Hán trên các hình chạm bạc, các khuy hình tròn bằng vỏ trai, vỏ ốc xà cừ có mầu sắc lóng lánh dính thành dẫy, thành chùm trên nền khăn đen, các hạt cườm ngũ sắc, các tua đỏ dính viền mép khăn đội đầu, thể hiện cho bầu trời cùng các vị thần tinh tú. Đường diềm trang trí bổ ô thể hiện họa tiết biểu trưng cho sự tuần hoàn của Mặt trời, Mặt trăng, thời tiết, mùa màng viền quanh khăn, là một kiểu bố cục khăn đội đầu của họ.

Hình tượng thần vị Mít Dơ – cai quản mặt đất, che chở con người, các hình tròn có chữ Hán trên các hình chạm bạc. Đường diềm trang trí bổ ô hình vuông thể hiện họa tiết tượng trưng cho bốn phương và trung tâm viền quanh khăn đội đầu, các mảng trang trí trung tâm chia thành nhiều ô vuông, trong ô vuông có chắp vải hình tam giác kèm nhau đôi một, một bên sáng một bên tối, một bên đậm mầu một bên nhạt mầu, một bên rực sáng một bên trầm u… thể hiện cho sự chuyển biến tuần hoàn của không gian, thời gian, của vũ trụ kỳ bí – là một kiểu bố cục khăn đội đầu của họ.

Cả hai kiểu bố cục đó đều sử dụng các họa tiết khác nhau nhằm biểu trưng cho cõi trời, cõi đất. Sự thể hiện nội dung này trong trang trí Lô Lô là hoàn toàn khác biệt.

Trong trang trí Lô Lô, nhất là trên trang trí của nhóm Lô Lô Đen, ta thấy xuất hiện hình trang trí: chim Ngó Bá. Phải chăng, con chim huyền thoại Ngó Bá này chỉ có liên quan đến nhóm Lô Lô Đen, như hiện tượng dân tộc học về tín ngưỡng vật tổ, còn tồn tại trong văn hóa của nhiều dân tộc, trong đó có dân tộc Lô Lô. Trên cả hai tấm khăn, người ta còn thêu những đường diềm nhỏ trang trí hình con cừu, đó là một con vật trong số 12 con vật tượng trưng để tính lịch, ngày, tháng, năm trong cách tính thời gian của nhiều dân tộc có ngôn ngữ Tạng – Miến.

Trên trang trí Lô Lô còn xuất hiện hoa văn trang trí hình bông lúa, là loại họa tiết thường trang trí trên quai trống đồng, một loại hình nhạc cụ phổ biến của các dân tộc ở miền Nam Trung Hoa và ở Việt Nam, trong đó có dân tộc nói ngôn ngữ Tạng – Miến. Hiện nay, người Lô Lô vẫn còn lưu giữ bảo quản loại trống đồng cổ truyền này với tư cách một nhạc cụ, sử dụng trong những dịp tiến hành nghi lễ trang trọng phục vụ cho phong tục, tập quán của dân tộc. Trang trí Lô Lô thực sự mang bản sắc văn hóa, cách nhìn quan điểm thể hiện nghệ thuật độc đáo riêng.

Làng nghề dệt lanh Lùng Tám

Từ cổng trời nhìn xuống , Lùng Tám là một xã nằm nép mình giữa những đỉnh núi đá mù sương bốn mùa mây phủ. Đây là nơi cư trú của đồng bào dân tộc Mông nổi tiếng với nghề dệt lanh, nhuộm chàm và vẽ sáp ong, đây cũng là nơi mà : “chỉ có mặc vải lanh, mình mới không bị lạc tổ tiên…”

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Đã thành truyền thống, mỗi người phụ nữ Mông đến tuổi trưởng thành đều có những mảnh nương riêng để trồng lanh. Những ruộng lanh mọc đều thẳng tắp chỉ hơn hai tháng đã cho thu hoạch, được người Mông cắt về rồi đem phơi khô để chế biến thành sợi. Khi tách lấy vỏ lanh, đôi tay người phụ nữ phải hết sức khéo léo cho sợi lanh có độ mảnh đều nhau và không bị đứt nửa chừng. Những bó vỏ lanh này được cuộn chặt lại rồi cho vào cối giã đánh bong hết bột chỉ, còn trơ lại sợi dai, rồi cuộn lại thành những con sợi lớn. Qua vài lần luộc nước tro bếp và một lần luộc nước sáp ong, sợi lanh đã trắng và mềm hơn và đó là lúc những phụ nữ người Mông bắt đầu ngồi vào khung dệt của mình.

Người Mông thường dệt bằng khung cửi đai lưng. Tấm vải được dệt xong còn phải giặt đi giặt lại nhiều lần cho thật trắng. Sau đó tấm vải được trải lên khúc gỗ tròn, rồi dùng một phiến đá chà sáp ong trượt đi, trượt lại cho đến khi tấm vải thật phẳng. Làm ra những tấm vải lanh tốt là niềm tự hào của mỗi người phụ nữ Mông, có lẽ cũng chính vì vậy mà họ luôn thận trọng trong từng công đoạn, dù là căng sợi hay luồn khung. Và cũng từ mong ước làm ra những tấm vải lanh tốt đó, không biết từ bao giờ họ cũng đã hình thành những quy ước rất khắt khe như kiêng nam giới đến gần khi phụ nữ căng sợi luồn vào khung, vì sợi đứt và bị luồn nhầm. Khi dệt xong, vải còn thô, người ta phải giặt nhiều lần, ngâm nước tro và phơi cho vải trắng và mịn, để có thể đem may mặc. Vải đẹp là vải nhẵn, sợi đều, trắng, nhỏ… khi mặc luôn tạo cảm giác mềm mại và thoáng mát.

Không chỉ giỏi dệt vải, người Mông ở Lùng Tám còn có kỹ thuật nhuộm chàm mà khó có nơi nào sánh được. Nhuộm chàm là công việc vất vả, mất nhiều thời gian và đòi hỏi tính kiên nhẫn cao. Muốn có màu chàm đen như ý, mảnh vải phải được nhuộm đi nhuộm lại nhiều lần, trong nhiều ngày. Người ta thường ngâm vải trong dung dịch chàm chừng một giờ đồng hồ, sau đó mới vớt ra để ráo nước rồi lại ngâm tiếp. Quy trình đó được lặp đi lặp lại 5-6 lần mới đem vải đi phơi. Khi nào mảnh vải khô, nó lại được mang vào ngâm tiếp; cứ như thế khoảng 8-10 lần. Thời gian ngâm cho vải lên nước đen bóng phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Gặp kỳ nắng ráo, mỗi mảnh vải chỉ cần 3- 4 ngày là có thể nhuộm xong; nhưng nếu trời mưa, phơi vải lâu khô, khoảng thời gian đó có khi kéo dài tới 2 tháng. Chính vì được nhuộm kỹ như vậy mà màu chàm của người H’Mông ở đây rất bền và luôn cho cảm giác tươi mới.

Vải lanh không chỉ bền mà còn được biết đến là một loại sản phẩm có lợi cho sức khỏe, không bị mốc, có khả năng hấp phụ cao, luôn tạo cho làn da sự thông thoáng mỗi khi mặc. Cũng chính vì lý do đáo mà nhu cầu tiêu thụ vải lanh, đặc biệt của khách hàng nước ngoài ngày càng cao. Đây thực sự là một cơ hội lớn để các sản phẩm đệm, túi, quần áo…, những sản phẩm văn hóa vừa hoang sơ, vừa lộng lẫy của mảnh đất mù sương Hà Giang phát triển./.

Làng nghề lụa Nha Xá – HÀ NAM

Nói đến Hà Nam, người ta thường nói đến mảnh đất với tên của những làng nghề dệt đã trở nên rất đỗi thân thuộc như Nha Xá, Đại Hoàng, Nhật Tân… với đủ các chất liệu dệt khác nhau từ tơ lụa, sợi bông đến các loại sợi tổng hợp…, là cầu nối không thể thiếu cho sự phát triển của nhiều ngành kinh tế của đất nước.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Nằm dọc bên dòng sông Đáy với những cánh đồng dâu xanh ngát là làng dệt lụa Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên), một làng dệt lụa được mệnh danh là Á Hậu của Việt Nam được hình thành từ đầu thế kỷ XIII gắn liền với tên tuổi vị Thành Hoàng Trần Khánh Dư, người đã có công dạy cho dân làng nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa.

Từ những năm đầu thế kỷ, những súc tơ lụa nõn bóng, mượt mà của vùng quê Nha Xá đã chinh phục được hầu hết các thị trường lớn cả nước. Cái hồn của lụa tơ tằm Nha Xá chính là hồn của thiên nhiên, trong sắc có độ trong, độ đục, có sự lấp lánh dưới ánh nắng trời… Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, làng nghề càng nhộn nhịp hơn và quy mô sản xuất của làng nghề tiếp tục được mở rộng theo hướng công nghiệp. Nhiều gia đình tiếp tục đóng thêm máy dệt, hoặc đầu tư thay khung gỗ bằng khung sắt để làm ăn lâu dài. Đặc biệt người làng dệt nhanh nhạy với thị hiếu người tiêu dùng luôn chuyển đổi mặt hàng. Nhiều mặt hàng mới ra đời như hàng đũi, hàng tơ se, hàng lụa hoa, hàng lụa trơn, hàng lanh… và chất lượng, mẫu mã sản phẩm tiếp tục được nâng cao. Từ Nha Xá, nghề dệt đã lan rộng đến nhiều vùng như Lảnh Trì, Chuyên Ngoại, Hoà Mạc, Đồng Văn… tạo việc làm và thu nhập cho hàng trăm gia đình.

Rời Nha Xá, chỉ gần 20 phút đi xe là bạn đến với làng dệt Nhật Tân của huyện Kim Bảng. Tiếng những khung dệt đều đều chen lẫn tiếng đục chạm gỗ đâu đây tạo nên bức tranh nhộn nhịp của một làng quê đa nghề, trong đó nghề dệt đã có cách đây gần 500 năm. Đây là quê hương của nghề dệt vải mộc sử dụng chất liệu sợi bông chủ yếu làm vải lót phục vụ cho ngành công nghiệp đóng dày, các loại vải lót được sử dụng phổ biến làm túi xách xuất khẩu, hay đủ các loại vải phục vụ cho đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao…

Điểm dừng chân cuối của chúng tôi là làng dệt Đại Hoàng thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân. Nét cảm nhận đầu tiên mà bất cứ du khách nào có dịp đến đây là những con đường làng gạch đỏ với những khúc uốn cong mềm mại cùng những dòng người tấp nập vận chuyển vải, manh đay…. Hiện nay các sản phẩn của dệt Đại Hoàng rất đa dạng và phong phú, nhiều kiểu loại, mẫu mã như khổ 40 cm là vải kẻ dân tộc, khổ 80 cm là vải thường, khổ 1,4 m là vải dệt chéo… , ngoài ra Đại Hoàng còn nổi tiếng về dệt bao tải và manh đay phục vụ xuất khẩu.

Nghề dệt vải Đại Hoàng phát triển rất mạnh trong những năm gần đây do nhu cầu của thị trường xuất khẩu, không những thu hút đông đảo người dân tham gia, mà còn lôi cuốn nhiều cơ sở kinh doanh làm dịch vụ bao tiêu sản phẩm, dịch vụ nhuộm vải, cung cấp nguyên liệu sợi dịch vụ vận chuyển, dịch vụ gỡ sợi tơ bị rối… Đại Hoàng cũng đã năng động đổi mới, mua sắm thiết bị để nâng cao năng suất. Đến nay, cả làng đã có tới trên 2.500 khung dệt chạy bằng điện, có 800 khung dệt được khổ rộng đem lại năng suất sản phẩm đạt 23 triệu mét vải, 5 triệu chiếc khăn mặt, 1.200 bao tải đay và 500 tấn manh đay trong năm 2005.

Phát triển nghề dệt vải truyền thống ở Nha Xá, Nhật Tân, Đại Hoàng … chỉ là những điểm sáng trong vô số các điểm sáng tại Hà Nam. Mô hình làm giàu bằng nghề dệt truyền thống ở đất đa nghề dệt Hà Nam đáng được biểu dương và học tập./.

Làng nghề áo dài Trạch Xá – HÀ NỘI Chẳng biết từ bao giờ, hình ảnh người thiếu nữ trong trang phục áo dài với các sắc màu trang nhã rỡ đã trở thành biểu tượng của trang phục, là sản phẩm văn hóa không thể thiếu cho vẻ duyên dáng của phụ nữ Việt nam. Nhưng chiếc áo dài đã có tự bao giờ và đâu là nơi nguồn cội…

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Chạy dài trong khu phố cổ còn giữ nguyên vẻ trầm mặc, cổ kính và quý phái, phố Lương Văn Can thường được biết đến là phố “Áo Dài” với những nhà may nổi tiếng như Vinh Trạch, Phúc Trạch, Tân Trạch… Khi được hỏi tại sao các hiệu may đều có chữ “Trạch” ở cuối tên, những người chủ cửa hàng đều rất đỗi tự hào kể về quê hương của họ, làng Trạch Xá, huyện Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây, ngôi làng có nghề may áo dài gia truyền nổi tiếng lâu đời.

Những người già ở Trạch Xá cũng không rõ nghề may áo dài của làng mình có từ bao giờ, nhưng ngược dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cách nay đã hàng nghìn năm. Ở Trạch Xá, dường như mỗi người khi vừa sinh ra đã biết cầm kim, chỉ cần một tay nải trong có cái thước kinh (thước dài 40 cm), cái kéo, cái vạch cùng cây kim sợi chỉ là họ có thể làm được nghề may ở khắp mọi nơi. Nhiều người thợ Trạch Xá đã được các vị Vua của triều đình Huế triệu về may áo, họ chỉ được nhìn từ xa mà vẫn phải cắt chuẩn.

Cũng giống như Kimono của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc hay Sari, trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ, Áo dài của Việt Nam cũng yêu cầu những chuẩn mực hết sức khắt khe nhằm thể hiện được những nét tinh tế nhất, từ việc lựa chọn kiểu may, màu sắc, chất liệu vải, đến những họa tiết trang trí… May áo dài khó nhất có lẽ là may những đường luôn (đường tà), nên ở Trạch Xá ai cũng thuộc lòng câu “trong dán hồ, ngoài phô trứng nhện”, nghĩa là phải khâu đường tà sao cho mũi kim chỉ tròn nhỏ xíu như trứng con nhện, thậm chí dùng mũi chỉ trắng khâu đường tà cho áo màu đên cũng không được nhìn thấy…. Để có những mũi chỉ như thế, người Trạch Xá đã phát minh ra cách cầm kim dọc làm đường kim sẽ không bao giờ chệch hướng và đều. Tuy nhiên có đường tà đẹp vẫn chưa đủ mà việc đo và cắt sao cho “ngang canh thẳng sợi” cũng là một trong những bí quyết góp phần làm những chiếc áo dài của người Trạch Xá bao giờ cũng mềm mại hơn, tha thướt và thực sự quyến rũ hơn.

Đã có rất nhiều du khách nước ngoài đã tìm đến Trạch Xá, không chỉ để đặt mối quan hệ hợp tác đưa sản phẩm Áo dài của Việt Nam đến với bạn bè trên thế giới, mà còn để chiêm ngưỡng những đôi bàn tay, những ngón tay búp măng đang lướt nhẹ trên những suối lụa mềm, để hiểu sâu sắc hơn về giá trị văn hóa phi vật thể của chiếc áo dài Việt Nam. Còn đối với người Trạch Xá, dù đi đâu, họ vẫn luôn yêu quý và gìn giữ nghề như một báu vật mà cha ông đã truyền lại, một nghề mà họ luôn tự hào có thể đem lại cho phụ nữ cái đẹp mãi trường tồn cùng dân tộc, trường tồn cùng năm tháng ./.

Làng nghề lụa Hà Đông Được gọi chung với cái tên gần gũi “Lụa Hà Đông”, nhưng Lụa Hà Đông chính là sự kết hợp của rất nhiều nghệ thuật dệt truyền thống đã được kết tinh để tạo ra những sản phẩm hết sức đa dạng như Gấm, Vân, Lụa, The, Sa, Lĩnh… sống mãi cùng thời gian.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Gấm Gấm là loại hàng nền dầy, có nhiều mầu sắc khác nhau (hồng, đỏ, hồng cánh chấu…) Hoa trên gấm thường có mầu tươi rực rỡ, dệt cài hoa nổi như thêu trên nền sa tanh. Sợi ngang sợi dọc trên mỗi tấm gấm đều nhuộm mầu theo gam, màu đã định trước, sợi dọc để tạo nền chìm ở phía dưới, sợi ngang tạo hoa nỗi rõ lên trên.

Vân Vân là mặt hàng lụa mỏng có hoa nổi, hoa chìm. Hoa nổi trên mặt lụa thì bóng mịn. Còn hoa chìm thì phải soi lên ánh sáng mới thấy

Lụa Bao gồm các loại lụa trơn và lụa hoa. Đây là mặt hàng đan theo kiểu đan “lóng mốt”, mặt lụa tất mịn màng, óng ả

The, sa, xuyến, băng, quế Đặc điểm chung của các loại sản phẩm dệt này là dệt thủng, nghĩa là trên mặt tấm the hay sa, xuyến…đều có những lỗ thủng nhỏ rất đẹp. Nhưng chúng lại khác nhau ở chỗ, cách bố trí sợi dọc, sợi ngang không giống nhau nhắm tạo nên các lỗ thủng khác nhau về kích thước và độ thưa, dày. Kỹ thuật dệt như thế không những tạo nên các loại hàng khác nhau mà còn làm tăng thêm tính thẫm mỹ của từng loại hàng tơ lụa.

Lĩnh, đoạn, vóc, sa tanh Các loại lĩnh, đoạn, vóc, sa tanh là hàng dệt dầy. Số lượng sợi dọc của các mặt hàng này nhiều hơn lụa, quãng 8.000 sợi so với lụa chỉ có 3.000 sợi. Một răng go có 8 hột cửi đi qua. Khi dệt lĩnh, đoạn, vóc, sa tanh người thợ phải làm sao cho sợi dọc nổi lên nhiều hơn, để mặt vải bóng nhoáng hơn

Làng dệt the lụa La Khê

Làng La Khê hay Làng La Ninh là một làng nghề cổ thuộc phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội. Làng nổi tiếng với nghề dệt the lụa từ thế kỷ 17, và có tên trong tập “Tứ quý danh hương” (Mỗ – La – Canh – Cót), trong dân gian có câu truyền tụng: “The La, lụa Vạn, chồi Phùng”.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Đình Bia Bà – La Khê

Làng La Khê được hình thành từ thế kỷ thứ 5, ban đầu làng có tên La Ninh (“La” là lụa, “Ninh” là sự thịnh vượng, lâu bền). Sang thế kỷ 15, làng La Ninh đổi tên thành La Khê (tức là làng dệt lụa bên dòng sông nhỏ). Thuở ban đầu, sản phẩm dệt của làng vẫn còn thô sơ, chủ yếu là sồi, đũi, phục vụ cho nhu cầu của cư dân Thăng Long xưa. Ðến đầu thế kỷ 17, người Hoa ở vùng Lưỡng Quảng (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam mang theo nghề dệt thủ công. Trong số đó, mười gia đình người Hoa đã đến lập nghiệp ở đất La Khê, đem nghề dệt the, sa nhuộm đen và công nghệ dệt tiên tiến dạy lại cho dân làng. Thời đó, hầu hết dân làng La Khê đều sống bằng nghề canh cửi. Các sản phẩm the, sa, vân, địa, quế, gấm vóc của La Khê với những họa tiết, hoa văn tinh xảo dần thay thế sồi, đũi nhờ chất lượng được nâng cao như mỏng, nhẹ hơn nhưng lại rất bền và đẹp, được các tầng lớp quý tộc ưa chuộng[1]. Cái khác biệt của làng lụa La Khê với làng lụa Vạn Phúc là: làng La Khê xưa chuyên nghề dệt sa màu và các thứ lụa bạch, lụa vân, còn làng cổ Vạn phúc thì nổi tiếng với thứ lụa gấm lâu đời (tương truyền có từ thời Cao Biền).

Đầu thế kỷ 19, làng La Khê cùng với các làng La Nội, Ỷ La, La Tinh, Yên Lộ, Nghĩa Lộ đều thuộc tổng La Nội huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây. Tới năm 1831, La Khê (cùng cả tổng La Nội) được chuyển về thuộc huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội.

Năm 1823, triều đình nhà Nguyễn ra sắc lệnh lập La Khê thành một xưởng dệt cho kinh thành Huế, đồng thời cho cả làng được miễn đi lính để tập trung cho việc phát triển làng nghề. Khoảng những năm 1840 thời vua Thiệu Trị, xưởng dệt làng La Khê gọi là Chức tạo cục, hàng năm phải sản xuất và cung cấp cho triều đình theo định mức 600 tấm sa màu. Chợ Cầu Ðơ với một tháng sáu phiên là nơi người dân trong làng bán buôn, để từ đó thứ sản phẩm cao cấp này đi khắp đất nước.

Tục truyền rằng: đến đời vua Minh Mạng (1820-1841), có viên cai đội mãn hạn lính nhà Nguyễn, tên là Trần Quý, tìm thấy được mảnh gấm nước ngoài dệt tinh xảo, liền mày mò nghiên cứu xem xét, tìm ra được bí mật trong cách dệt gấm vóc của nước ngoài, bèn cùng một số thợ bạn trong làng bàn cách cải tiến việc dệt gấm vóc và cuối cùng nhóm thợ làng La Khê này đã dệt được một tấm gấm tinh xảo không kém tấm gấm mẫu. Từ đó, làng La Khê có thêm nghề dệt gấm, Trần Quý thành ông tổ dệt gấm của làng[6].

Nghề dệt the ở La Khê phát triển mạnh, không những cung cấp cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang châu Âu. Đầu thế kỷ 20, các nghệ nhân làng nghề còn được phong cửu phẩm, bá hộ, thêm vào đó the làng La còn được mang triển lãm ở thành phố Paris.

Sau năm 1954, nghề dệt the tạm lắng, cả làng La Khê quay sang dệt vải bông, khăn mặt, thảm đay theo kinh tế tập trung, phục vụ sinh hoạt trong thời chiến tranh Việt Nam.

Năm 2002, Làng nghề được khôi phục, nhiều nghệ nhân mày mò để giữ một nghề truyền thống của các bậc tiền nhân.

Làng lụa Vạn phúc Tỉnh Hà Đông, từ cái thuở “bảy làng La, ba làng Mỗ” xưa kia đã làm nghề dệt lụa, cho nên có người gọi đây là quê lụa. Lụa Hà Đông nổi tiếng nhất vẫn là lụa Vạn Phúc. Người ta gọi lụa Hà Đông chính là lụa Vạn Phúc. Làng lụa Vạn Phúc, nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội, là một trong những làng nghề lâu đời bậc nhất Việt Nam.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Gần ngàn năm tuổi

Theo truyền thuyết, cách đây khoảng 1.200 năm, bà A Lã Thị Nương, một người con gái ở Cao Bằng nổi tiếng đảm đang và dệt lụa khéo léo về làm dâu làng Vạn Phúc. Bà đã đem những bí quyết dệt lụa của Trung Quốc về truyền dạy cho người dân trong làng. Đến khi mất đi, bà được người dân tôn làm thành hoàng làng.

Làng lụa Vạn Phúc có tiếng từ thời Lý. Lụa cao cấp để tiến cống vua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, theo khách buôn sang phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và một số nước Đông Nam Á qua con đường giao thương tại các cửa biển Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội An (Quảng Nam – Đà Nẵng). Dưới triều Nguyễn, lụa Vạn Phúc thậm chí được chọn may quốc phục.

Theo bà Nguyễn Thị Lý, Phó chủ tịch phường Vạn Phúc, ban đầu lụa Vạn Phúc chỉ để phục vụ tầng lớp trung lưu trở lên. Đến cuối thế kỷ 19, nhà Nguyễn khuyến khích dùng hàng nội, các nghệ nhân làng Vạn Phúc nhanh chóng sưu tầm, học hỏi, cải tiến để “bình dân hóa” các mặt hàng gấm, vóc.

Trong hai năm 1931 và 1936, thợ dệt Vạn Phúc hai lần mang sản phẩm sang dự “đấu xảo” ở Marseille và Paris (Pháp). Từ đó, lụa Vạn Phúc nhận được sự đánh giá cao trên thế giới, nhất là mặt hàng lụa hàng vân.

Trải qua bao thăng trầm đổi thay, làng Vạn Phúc vẫn giữ được nguyên vẹn những giá trị cổ truyền trên từng vân lụa, thớ vải. Nét đặc biệt của lụa Vạn Phúc nói chung và lụa hàng vân nói riêng là ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè, mặc lên người thấy mềm mại và nhẹ nhàng.

Hoa văn trang trí trên vải lụa tuy rất đa dạng với các mẫu Song Hạc, mẫu Thọ Đỉnh, mẫu Tứ Quý… song luôn tuân theo những thủ pháp nghệ thuật truyền thống như trang trí đối xứng, đường nét không rườm rà, phức tạp mà phóng khoáng, dứt khoát.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Thăng trầm một làng nghề

Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng Vạn Phúc giờ khang trang. Nhà cao tầng, gian hàng trưng bày lụa mọc lên san sát, con phố bán lụa mới mở cứ dài ra mãi.

Nhưng làng vẫn còn giữ được ít nhiều nét cổ kính qua hình ảnh chiếc giếng làng nằm cạnh cây đa cổ thụ và những phiên chợ chiều họp trước đình làng. Trong nhiều gia đình, khung dệt cổ vẫn được giữ lại xen lẫn với các khung dệt cơ khí hiện đại.

Thời bao cấp, làng Vạn Phúc không dệt lụa mà chủ yếu dệt thảm đay, thảm len xuất khẩu sang Liên Xô, Đông Âu. Đến khi không còn hợp tác xã, hết thị trường, người làng lụa ngơ ngác, canh cửi bỏ không, người đi buôn, kẻ làm ruộng, tưởng như mất cả nghề.

Rồi cơ chế thị trường đến, nghề dệt hồi sinh. Làng lụa liên kết với nhau làm thành một dây chuyền, người sửa máy dệt, người vẽ hoa, người cung cấp tơ, người nhuộm, người se chỉ màu, người hồ sợi…

Không chỉ khôi phục nghề truyền thống, người làng Vạn Phúc ngày nay còn đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, mở website đưa lụa lên Internet, tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế.

Bà Nguyễn Thị Lý cho biết hiện tại còn khoảng 60% hộ sản xuất và kinh doanh các mặt hàng dệt lụa tơ tằm. Trong làng nghề hình thành nhiều doanh nghiệp lớn nên mẫu mã, chủng loại cũng phong phú hơn nhiều.

Theo quy hoạch, tới năm 2011, Vạn Phúc sẽ phát triển du lịch làng nghề bằng cách hoàn thiện ba công trình lớn gồm khu sản xuất rộng 13 ha, trung tâm giới thiệu sản phẩm và nhà truyền thống gắn liền với đền thờ tổ nghề dệt lụa. Hiện phường đang triển khai khu sản xuất 13 ha nằm biệt lập ở rìa làng nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường (nước thải và tiếng ồn). Tổng số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng vào khoảng 60-70 tỉ đồng.

Làng nghề dệt thổ cẩm Mai Châu Dệt thổ cẩm là nghề truyền thống của các dân tộc huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) tạo nên bản sắc văn hoá riêng hấp dẫn du khách. Chính vì vậy, năm 2002, huyện Mai Châu được dự án xây dựng cơ sở làng nghề đầu tư nhằm tạo cơ sở ban đầu cho phát triển du lịch làng nghề. Dự án đã xây dựng được cổng trào lớn tại ngã 3 Tòng Đậu, 4 cổng chào nhỏ, 4 bãi thu gom rác thải, trên 6km đường… tại 4 xã Chiềng Châu, Nà Phòn, Tòng Đậu và thị trấn, với kinh phí 5.774 triệu đồng.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Qua đó bộ mặt làng nghề có nhiều thay đổi. Trước đây, để dệt một tấm thổ cẩm, đồng bào phải mất 7 tháng trồng bông, trồng dâu rồi sau nhiều công đoạn mới xe được sợi vải để dệt nên tấm thổ cẩm truyền thống. Những năm 90 của thế kỷ trước, đến với bản Lác, bản Nhót, Pom Coọng… du khách vẫn nghe lách cách tiếng thoi đưa dệt vải.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Hiện nay, đồng bào hầu như không trồng bông, trồng dâu để dệt vải nữa. Những tấm vải thổ cẩm truyền thống của các dân tộc Mai Châu lại được dệt từ những sợi tổng hợp qua xử lý mang từ dưới xuôi lên. Đây chính là nguyên nhân làm cho dệt thổ cẩm ở Mai Châu trở nên mai một, không giữ được sự tinh tuý như vốn có. Sản phẩm làm ra nhiều nhưng du khách không thích. Bên cạnh đó, công tác quản lý, bao tiêu sản phẩm chưa có, chưa tổ chức được thành nhóm, dân tự dệt, tự tiêu thụ nên sản phẩm làm ra manh mún, chưa tạo được sự liên kết trong hoạt động sản suất kinh doanh. Chị Hà Thị Út ở Bản Lác cho biết: một ngày dệt liên tục được 1 sải (dài 1,6m, rộng 0,7m) bán được 20.000 nghìn đồng, trong đó tiền mua sợi hết 8.000 nghìn đồng. Nhưng không phải dệt ra là bán được ngay. Hết mùa du lịch bản Văn, Pom Coọng, người dân dường như hoàn toàn trở lại với công việc chính của mình là làm ruộng. Khi đó, những khung cửi được xếp vào một góc, nếu có thì cũng không thấy người dệt. Cả bản có 15/64 hộ đăng ký hoạt động du lịch, con số này ở bản khác càng thấp hơn. Bản Lác là nơi tập trung khách du lịch tương đối lớn những cũng 20/109 hộ… Người dân nơi đây vẫn sống bằng nghề nông là chính, thu nhập từ du lịch chiếm từ 20 đến 30% tổng thu nhập, có gia đình ở bản nhót phát triển được là nhờ chăn nuôi, trồng trọt.

4 bản làm du lịch chính ở Mai Châu hiện nay gồm bản Lác, Nhót, Văn, Pom Coọng có gần 300 khung cửi nhưng hoạt động không thường xuyên, có gia đình bỏ hẳn. Để các làng nghề phát triển bền vững, năm 2004 tỉnh Hoà Bình đã phê duyệt qui hoạch phát triển ngành nghề nông thôn trong đó tập trung qui hoạch một số ngành nghề như: chế biến lương thực; sản xuất rượu cần; sản xuất chế biến chè… xây dựng các cơ sở chế biến lâm sản; mở rộng sản xuất mây tre đan; khai thác vật liệu xây dựng… Bên cạnh đó, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã khảo sát tại tỉnh Hoà Bình về nội dung qui hoạch phát triển nghề truyền thống trong đó 2 sản phẩm chính mang bản sắc vùng văn hoá tây bắc là dệt thổ cẩm và rượu cầt. Sau khi khảo sát tại Mai Châu, tổ chức JICA sẽ quyết định đầu tư cho bà con trồng dâu và trồng bông làm vải thổ cẩm và vải tơ tằm. Trên thực tế, người dân mong muốn hoạt động du lịch để dệt thổ cẩm trở thành làng nghề, nhưng trước hết phải tôn tạo bản sắc văn hoá dân tộc, đầu tư vào chất lượng vải bằng sợi bông, sợi tơ tằm do chính người dân tự trồng, tìm cơ sở nhận bao tiêu sản phẩm lâu dài, duy trì và đào tạo nghề dệt thổ cẩm, không để người dân làm tự phát. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời chú ý đến vấn đề vệ sinh môi trường, giải trí văn hoá kết hợp mở các chuyến du lịch trọn gói để du khách lưu lại lâu hơn, góp phần tạo nên một khu du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Như vậy, dệt thổ cẩm Mai Châu mới trở thành làng nghề gắn với các hoạt động du lịch sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào tình hình phát triển kinh tế của địa phương.

Làng nghề dệt lụa Vân Phương – HƯNG YÊN Thôn Vân Phương (thuộc xã Liên Phương – thị xã Hưng Yên) có nghề dệt lụa lâu đời, một thời lụa Vân Phương đã xấp xỉ cặp kè lụa Mẹo (Thái Bình) và lụa Nam Định. Trước năm 1991, nghề dệt Vân Phương phát triển rất mạnh.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Xã Liên Phương đã có cả một Hợp tác xã Dệt chuyên nghiệp với hơn 400 lao động sản xuất tập trung mà chủ yếu là người Vân Phương, chiếm tới 50% số lao động của địa phương, ngoài ra còn có số lao động phụ cũng có đến cả trăm người. Những năm đó sản lượng lụa đạt tới 400.000 m, xô màn 150.000 m, khăn mặt 100.000 cái, doanh số của làng nghề tính theo thời giá hiện nay đạt khoảng 6 tỷ đồng/năm, thu nhập bình quân cho một lao dộng chính ổn định 300.000 đồng/tháng. Từ sau năm 1991, do không còn nguồn sợi từ Liên Xô cũ, Nhà nước xoá bỏ cơ chế giá cung cấp vật tư cho ngành dệt, Vân Phương mất nghề từ đó, Làng dệt lụa Vân Phương có tiếng một thời nay không còn tồn tại. Năm 1998 Sở Công nghiệp HưngYên cùng với địa phương có nghiên cứu khả năng phục hồi làng nghề này nhưng khôi phục làng nghề Vân Phương đang gặp khó khăn

Làng nghề thổ cẩm của người Thái Tây Bắc – LAI CHÂU

Nghệ thuật trang trí của người Thái Tây Bắc rất phong phú và độc đáo, có tới hơn ba mươi loại hoa văn, họa tiết, thể hiện sống động trên thổ cẩm. Có thể nói mỗi người con gái Thái là một nghệ nhân tài hoa. Việc biết thêu thùa, dệt vải được coi là tiêu chuẩn, là sự tất yếu cần phải có, “Nhinh hụ dệt phải, trái hụ san he”, có nghĩa là “gái biết làm vải, trai biết đan chài”. Mỗi khi các cô gái ngồi vào khung cửi, mỗi hoa văn, họa tiết như có hồn, lung linh sống động: “ Úp bàn tay thành hình muôn sắc/Ngửa bàn tay thành hoa muôn màu”-“Khoẳm mư pên lai/Hai mư pên bók” (dân ca Thái).

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Thổ cẩm của người Thái Tây Bắc thường sử dụng các màu trắng, đỏ, vàng, xanh lá cây, tím… tạo ấn tượng mạnh. Họa tiết thường đối xứng với nhau, phản ánh quan niệm về sự hòa hợp trường tồn của cuộc sống, quan niệm về vũ trụ, triết lý âm dương, đất trời cùng vạn vật…

Lấy thiên nhiên làm hình mẫu, thổ cẩm của người Thái Tây Bắc không khác nào cảnh thiên nhiên thu nhỏ. Đó là những hình thoi như quả trám chạy viền, hoa ban cách điệu, con suối với thác ghềnh tung bọt trắng xóa đây đó những chùm hoa buông dài như xà tích, lá đơn, lá kép, búp cây, dây leo, cây guột… Ngay trong mỗi bông hoa, hoặc thế giới động vật thu nhỏ, cách điệu cũng có hoa đực, hoa cái, con trống, con mái. Âm dương hài hòa, ước mong sự sinh sôi phát triển, khát khao chung sống thuận hòa theo qui luật của muôn đời được thể hiện vô cùng tinh tế và phải trải qua hàng vạn năm tiến hóa mới có được.

Thế giới động vật được phản ánh trên thổ cẩm rất đa dạng: Con khỉ tinh nhanh, lanh lợi và hiếu động như trẻ thơ. Con rái cá tượng trưng cho tình yêu sắt son chung thủy, gia đình hạnh phúc. Ở mặt chăn thường thêu hình con thuồng luồng thể hiện tình cảm, ước mơ và lòng vị tha cao cả của người mẹ, người vợ luôn chung thủy, độ lượng bao dung…

Mỗi vùng, thổ cẩm của người Thái Tây Bắc cũng khác nhau. Nếu như thổ cẩm của người Thái vùng Mường Lò (Văn Chấn, Yên Bái) có màu thẫm hơn, sử dụng nhiều gam màu trầm như hướng tới sự suy tư trăn trở của chiều sâu tâm lý, thì thổ cẩm của người Thái Mộc Châu (Sơn La) lại tươi sáng, rực rỡ, bay bổng những ước mơ, khát vọng.

Khăn Piêu Thái Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình qua trang phục. Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để chúng ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi dịp tiếp xúc. Người Thái cư trú ở nhiều nơi trên đất nước ta nhưng tập trung đông nhất là ở các tỉnh Tây Bắc, Sơn La, Lai Châu…. Ngoài sức hấp dẫn của trang phục, khăn piêu của phụ nữ Thái mang một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo:

….”Em xe sợi thành vóc hoa dâu Em dệt cửi thành gấm vân chéo Em dệt tơ thành đóa hoa vàng Người các bản các phường muốn khóc Đều ước ao được em thêu khăn” (Dân ca Thái)

Nếu chỉ trừ một bộ phận phụ nữ Thái trắng đội nón tát thì đa số phụ nữ Thái Mường Thanh (Lai Châu), Mường La (Sơn La), Mường Lò (Lào Cai), đều đội khăn vải, khăn vải dùng để đội trên đầu người Thái gọi là piêu. Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm chàm, tùy từng vùng, từng địa phương mà piêu có những sắc thái riêng của nó. Piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh. Piêu còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay dự lễ hội…

Đồng bào Thái làm piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là mầu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các đồ án hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam….) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần. Piêu Thái không phải trang trí ở toàn bộ diện tích của nó mà được tập trung đồ án trang trí ở hai đầu. Trước khi thêu các đồ án trang trí ở hai đầu khăn, phụ nữ Thái ghép mảnh vải đỏ làm viền. Các viền đỏ bọc cho sợi ở các đầu khăn khỏi bị xổ ra, vừa như là giới hạn diện tích trang trí ở đầu khăn. Đường viền vải đỏ bọc ở ba mép đầu khăn rộng trên dưới 1 cm. Phụ nữ Thái dùng lối khâu luồn rất khéo léo để hạn chế tới mức tối đa đường chỉ lộ ra ngoài để cho đường viền màu đỏ và nền chàm của khăn liền làm một.

Trước khi thêu, chị em làm những chiếc cút để đính vào piêu, có thể làm nhiều cút piêu một lúc rồi dùng dần. Cút piêu được làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1 cm, bên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại. Cuộn vải tròn được khâu vắt thành một hình tròn rồi quấn dây vải lại theo hình trôn ốc, sau đó được quấn thêm các loại chỉ màu thành các múi trong hình tròn. Đối với các cút piêu đòi hỏi phải tỷ mỷ, cầu kỳ, chỉ có những người thành thạo mới biết làm. Các cút sau khi làm xong được ghép lại rất khéo léo vào đầu piêu. Các loại chỉ màu được sử dụng như vậy vừa mang chức năng kỹ thuật, vừa mang giá trị thẩm mỹ. Nhìn vào chiếc cút được dính vào đầu piêu, ta rất khó đoán nhận ra được mạch chỉ khâu ghép các đường trang trí với nhau. Các loại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo, có nhiều kiểu: móc xích, chân rết, xương cá… Các cút piêu trước hết được đặt trên ba đoạn thẳng của mỗi đầu khăn. Còn chính bốn góc của khăn, chị em dùng dây làm cút còn dư tết thành hình bông hoa cách điệu. Cút piêu thường được sắp xếp thành từng chùm lẻ (3, 5, 7 cái) trên các vị trí cách đều nhau ở hai đầu khăn, bởi vậy cút ở trên piêu bao giờ cũng là cút chùm. Cũng như nhiều vật dụng khác (cúc áo, chắn song cửa sổ, bậc thang nhà sàn…), cút piêu được thiết kế theo quan niệm số lẻ. Bình thường phụ nữ Thái thường đội piêu có cút chùm ba, nhưng khi tặng piêu cho người bậc trên, người mình quý trọng, kính yêu thì tặng loại piêu có cút chùm năm trở lên.

Sau khi bọc viền và ghép cút piêu xong, phụ nữ Thái bắt đầu công việc thêu piêu. Khi thêu những đồ án hoa văn đa dạng lên hai đầu khăn, họ nhìn theo mẫu, song không rập khuôn một cách máy móc. Trong quá trình thêu, họ có thể sáng tạo theo ý muốn chủ quan của mình. Nét đặc biệt là phụ nữ Thái không thêu piêu ở mặt phải (như lối thêu thông thường) mà lại thêu từ mặt trái, các hoa văn với đồ án và màu sắc phức tạp lại hiện lên ở mặt phải, đó là lối thêu truyền thống với trí tưởng tượng của kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài tình. Piêu được tạo theo lối luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải, nhưng cái khó là phải tính toán theo một nguyên tắc nhất định để luồn chỉ vào mặt trái và hoa văn lại hiện lên chính xác ở mặt phải. Hoa văn piêu không đơn giản, điểm xuyết mà là một hệ thống đồ án có bố cục nội dung phức tạp, đòi hỏi người phụ nữ Thái phải nắm chắc nguyên tắc kỹ thuật, phải thuộc đồ án hoa văn với hai mặt phải, trái của nó.

Con gái Thái từ 6,7 tuổi phải làm quen với bông, sợ, dệt vải, mười hai, mười ba tuổi bắt đầu làm quen với công việc thêu thùa. Thành viên nữ của cộng đồng Thái phải biết nhìn vào mẫu piêu, biết nhận ra bố cục của đồ án hoa văn. Học thêu piêu với các cô gái Thái là một quá trình nhận thức và rèn luyện đôi bàn tay khéo léo của mình để chuẩn bị bước vào đời. Lúc đầu các cô gái chỉ thêu được những đường thẳng hoặc những mô-típ hoa văn đơn giản, dần dần tiến tới biết xử lý đồ án, bố cục, biết xử lý màu sắc ở nhiều mô-típ hoa văn trong những bố cục phức tạp. Việc học dệt vải và học thêu khăn piêu là bài học phổ thông, tất yếu của mọi thành viên nữ trong nếp sống của cộng đồng dân tộc Thái, bởi vậy piêu còn là một tiêu chuẩn xã hội để đánh giá một phụ nữ. Qua chiếc piêu có thể biết được chủ nhân của nó là người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là người lười nhác, vụng dại.

Khăn piêu của phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn mang tính xã hội, cùng với váy, áo, nón đội, thắt lưng piêu góp phần tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn về trang phục truyền thống của dân tộc Thái.

Làng nghề dệt thủ công mỹ nghệ – LÂM ĐỒNG Lâm Ðồng từng được biết đến với các sản phẩm dệt thổ cẩm đã có từ lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên trước đây chỉ là nhà ai dệt nhà nấy có chứ chưa hình thành các làng nghề dệt thổ cẩm như hiện nay. Có tiếng tăm ở Lâm Ðồng bây giờ là hai làng nghề dệt thổ cẩm B’Nơ C (xã Lát – Lạc Dương) và làng nghề K’Long (xã Hiệp An – Ðức Trọng).

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Lâm Ðồng từng được biết đến với các sản phẩm dệt thổ cẩm đã có từ lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số.Tuy nhiên trước đây chỉ là nhà ai dệt nhà nấy có chứ chưa hình thành các làng nghề dệt thổ cẩm như hiện nay. Có tiếng tăm ở Lâm Ðồng bây giờ là hai làng nghề dệt thổ cẩm B’Nơ C (xã Lát – Lạc Dương) và làng nghề K’Long (xã Hiệp An – Ðức Trọng). Các mặt hàng dệt này tuy chưa có điều kiện xuất đi nhiều ở thị trường các nước nhưng cũng không còn trong phạm vi hạn hẹp như trước đây là chỉ có đồng bào dân tộc ít người mới sử dụng những sản phẩm do chính tay họ làm ra, mà hầu như mọi người dân Lâm Ðồng đều đã dần cảm thấy thích thú khi mua sản phẩm này và dùng chúng một cách có ích. Mỗi một người khi đi ngang qua quầy hàng thổ cẩm đều không khỏi dừng chân nán lại nhìn ngắm và mua lấy một hoặc một vài kiểu giỏ xách tay, ví, bóp đầm, băng đô,… với sự phối màu rất lạ mắt, tinh tế và hấp dẫn người mua hàng. Hiện đã dần có ngày càng nhiều các quầy hàng thổ cẩm được bày bán ở các điểm tham quan du lịch như Thung lũng Tình yêu, Langbiang, Thác Prenn, hồ Than Thở,… Ngoài ra, tại các nhà hàng, khách sạn trong tỉnh và cả ngoài tỉnh du khách cũng nhận thấy mặt hàng này được sử dụng làm khăn trải bàn, làm vật trang trí càng tăng thêm vẻ sinh động cho không gian nơi làm việc và sinh hoạt.

Các làng nghề thủ công mỹ nghệ

Làng nghề dệt thổ cẩm K’Long, xã Hiệp An, huyện Ðức Trọng, cách Ðà Lạt khoảng 20 km về phía Nam hiện do Cha Nguyễn Ðình Phúc quản lý, thuộc loại hình cơ sở dạy nghề với 40 công nhân theo học và sản xuất, trong đó bộ phận dệt là 14 chị, may là 20 chị và thêu là 6. Các chị cho biết mỗi một buổi có thể dệt được một tấm vải dài 90 mét khổ 2 tấc dùng làm khăn quàng cổ, caravate, túi xách tay hoặc quần áo,…mẫu mã đa dạng, rất đẹp mắt. Các mặt hàng ở đây luôn ổn định về chất lượng, được biết mỗi năm có thể xuất một lần ra nước ngoài, năm 2003 xuất đi Ý đạt 1000 USD. Mới chỉ hơn 02 năm thành lập nhưng làng nghề K’Long đã tạo được nhiều ấn tượng tốt cho người dân Lâm Ðồng, Tây Nguyên nói riêng và người dân cả nước nói chung; tạo được công ăn việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, các chị có nghề nghiệp vừa làm tăng thu nhập cho gia đình lại vừa góp phần cho sự phát triển mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và cho nền kinh tế tỉnh nhà nói chung.

Một làng nghề cũng được du khách rất quan tâm đó là làng nghề dệt thổ cẩm B’Nơ C, không thuận lợi như làng nghề K’Long là nằm ngay quốc lộ 20, nhưng B’Nơ C lại là vùng thuộc khu du lịch Langbiang, là nơi du khách rất thường xuyên lui tới, tham quan và mua sắm, đặc biệt là các mặt hàng thổ cẩm với nhiều mẫu mã đa dạng làm mê mẩn lòng người. Chị K’ Tuyn, người được công nhận là nghệ nhân trong nghề, cho biết với 40 hộ làm nghề thì có 35 người dệt chính, có khả năng cung cấp sản phẩm thường xuyên, còn lại những thợ phụ là các em học sinh hoặc phụ nữ lớn tuổi. Hầu hết các chị vừa làm nghề dệt lại vừa làm nội trợ và làm cả việc nương rẫy nhưng năng suất vẫn rất cao. Mỗi người có thể dệt một tấm vải dài 2m khổ 55cm/ ngày và 02 tấm vải 55cm sẽ thành một tấm ui cho phụ nữ K’Ho mặc hàng ngày. Hoa văn, màu sắc cũng đặc trưng không kém gì các mặt hàng thổ cẩm của những làng nghề khác. Làng nghề B’Nơ C cũng đã tham gia một vài hội chợ trong nước nên đã gây được ấn tượng đối với nhiều du khách trong và ngoài nước.

Bên cạnh mặt hàng thổ cẩm thì mây tre đan, tranh thêu tay trên lụa, đan len, hoa tươi sấy khô,…cũng là những thế mạnh đặc trưng của Lâm Ðồng. Công ty TNHH XQ, HTX mỹ nghệ Hữu Hạnh nổi tiếng với mặt hàng thêu tay,; Tổ hợp tác đan len Trưng Vương (chợ lầu A – Ðà Lạt) được biết đến qua những mẫu mã sản phẩm len đẹp mắt và có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với du khách trong và ngoài nước, một cảm giác ấm áp mỗi khi mặc chiếc áo len trong mùa Nô – en khiến mọi người cảm thấy được che chở, bao bọc vừa ấm cúng lại rất thời trang. Xưởng hoa khô Minh (04 Hồ Tùng Mậu, Ðà Lạt) trưng bày nhiều mẫu hoa đẹp đến lạ lùng, lúc thì tươi tắn như nụ cười của cô gái vừa chớm tuổi đôi mươi, khi thì lại buồn bã, trầm lắng như vẻ một người thiếu phụ, mỗi bình hoa, mỗi bức tranh hoa là một nét đặc sắc làm thích thú biết bao du khách và cả người dân địa phương vẫn hằng ngày qua lại.

Ðà Lạt – với phong cảnh hữu tình lại được tô điểm thêm bởi những nét truyền thống đặc trưng qua những sản phẩm làng nghề độc đáo. Ðà Lạt tuy là xứ lạnh nhưng luôn muốn làm ấm lòng du khách thập phương.

Làng nghề thổ cẩm của người Nùng – LẠNG SƠN

Người Nùng là dân tộc ở xen kẽ với người Tày, có nhiều mối quan hệ mật thiết trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng ngôn ngữ và văn hóa nghệ thuật dân gian. Người Nùng có nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm lại có trang phục có đặc điểm trang trí khác nhau đôi chút, nhưng chủ yếu trên trang phục cũng không có thêu thùa gì ngoài một số khoang vải có mầu khác với thân áo được đắp vào ống tay áo, vạt áo… mà thôi. Người Nùng cũng dệt mặt hàng thổ cẩm có dùng chung phong cách nghệ thuật, đề tài như thổ cẩm Tày.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Trong các đồ dùng bằng vải như túi đeo, giầy, khăn. Người Nùng có thêu họa tiết và chắp vải. Đường nét mềm mại, uyển chuyển, điển hình gần gũi với hiện thực, tự nhiên, mầu sắc êm dịu, chuyển sắc tinh thể gần với màu trong thiên nhiên. Họ còn có nhiều thủ thuật sử dụng sáp ong để tạo họa tiết trên vải màu chàm, trong đó có cách vẽ sáp ong để tạo thành đường nét trang trí cũng đáng lưu ý về giá trị thẩm mỹ như hình số 13 trong sưu tập này. Ở đây, ta thấy gần với các đồ án hoa văn hình kỷ hà trong bố cục hình vuông của thổ cẩm Tày, Nùng nhưng ở trung tâm trang trí, các ô vuông đã áp dụng lối bố cục đối xứng quay quanh điểm trung tâm tạo cho đồ án trang trí vui mắt hơn thể thức bố cục đăng đối tuyệt đối trong trang trí thổ cẩm Tày.

Nghề nhuộm chàm của Người Mông – LÀO CAI Cuộc sống hiện đại đã len lỏi đến các bản làng vùng cao mang đến nhiều điều mới lạ. Thế nhưng, người Mông ở Sa Pa vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình, một trong số đó là nghề nhuộm chàm.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Người phụ nữ Mông đôi bàn tay lúc nào cũng xanh màu chàm, đó là dấu ấn sau những lần nhuộm chàm – công việc mà họ gắn bó cả đời. Phải mất khá nhiều thời gian trong việc nhuộm chàm mới có được màu đen cho bộ trang phục.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Người Mông khi đi ở nơi mới một thứ không thể thiếu khi mang theo đó là cây chàm giống. Chàm được trồng vào tháng 2 và háng 7 là mùa thu hoạch. Chàm cắt về, đem vò nát để lấy nước. Thứ nước cốt đó được đổ vào thùng gỗ thông, qua một lớp tro bếp để trong bao tải rồi pha thêm nước ngâm khoảng 1 tuần. Theo kinh nghiệm của đồng bào phải có tro bếp thì chàm mới giữ màu được lâu, không phai.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Qua một hai nước chàm, vải có màu xanh, liên tục như vậy trong khoảng một tháng thì tấm vải có màu đen thẫm và sau đó chuyển sang công đoạn mài bóng vải.

Vải được đặt trên một miếng gỗ và mài bằng một tấm đá. Để tạo độ trơn khi mài, người ta bôi sáp ong lên vải. Đôi chân người phụ nữ khéo léo đẩy đi đẩy lại tấm đá, khi vải sáng bóng lên là được. Những tấm vải này dùng để làm áo khoác ngoài cho đàn ông và vạt áo trước cho phụ nữ với ưu điểm đẹp và rất bền.

Nghề dệt, thêu thổ cẩm ở Lào Cai Ngay từ lúc còn nhỏ, các cô gái dân tộc Mông, Tày, Dao ở các huyện vùng cao Lào Cai đã được thấy bà, mẹ miệt mài thêu, dệt thổ cẩm để làm nên những chiếc áo, mũ, khăn choàng và những bộ trang phục truyền thống.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Công việc này được các bà, các chị làm thường xuyên, bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu khi có thời gian rảnh rỗi.

Rồi người con gái lớn lên trước khi đến trường học chữ đã được bà, mẹ, chị của mình dạy cho cách thêu, cách chọn sợi, chọn vải, cách tìm cây lấy mầu cũng như kỹ thuật pha mầu, phối mầu, cách thêu, dệt những sản phẩm thổ cẩm từ đơn giản đến phức tạp. Đối với đồng bào, sản phẩm thêu, dệt thổ cẩm chính là thước đo đánh giá sự khéo léo, cần cù của người phụ nữ đảm đang. Chả thế mà thổ cẩm không chỉ dùng để trang trí, tô điểm cho sắc đẹp mà còn là vật kỷ niệm của tình yêu hay trong ngày cưới của các đôi trai, gái. Cứ như thế từ đời này sang đời khác, không biết từ khi nào, dệt, thêu thổ cẩm trở thành nghề truyền thống, với những nét hoa văn, sắc màu mang đặc trưng của từng dân tộc, từng vùng miền.

Theo lời kể của các bà, các chị đã có kinh niên dệt, thêu thổ cẩm thì đây là một loại nghề truyền thống, gắn với nét văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc. Các sản phẩm từ nghề dệt, thêu thổ cẩm chủ yếu do đồng bào sản xuất, để phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình. Trong những năm gần đây, khi hoạt động kinh doanh của ngành du lịch phát triển, nhu cầu về sử dụng và tiêu dùng của khách du lịch đối với mặt hàng thổ cẩm sản xuất bằng phương pháp thủ công ngày một lớn. Thổ cẩm trở thành món quà không thể thiếu được cho mỗi du khách sau mỗi lần đặt chân tới những miền đất của Lào Cai. Từ đó, nghề dệt, thêu thổ cẩm được phục hồi và phát triển tương đối nhanh, với hàng chục ngàn mét vải thổ cẩm được sản xuất mỗi năm. Các mẫu mã được lấy cảm hứng từ cuộc sống và cách điệu tạo nên những sản phẩm công phu, giàu tính sáng tạo, với những họa tiết trong sáng, gần gũi với thiên nhiên, đời sống người dân bản địa, đó là hoa lá, chim muông, cây cỏ, trời mây. Bằng các nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, như sợi bông, sợi lanh, lá trầu, củ nghệ, lá cơm xôi, cỏ phạy… qua bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ tinh tế của người phụ nữ đã thêu, dệt nên những tấm vải đủ màu sắc, hoa văn mang đậm giá trị bản sắc dân tộc. Để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường, sản phẩm được làm từ thổ cẩm cũng trở nên đa dạng, phong phú hơn với những chiếc ba lô, túi khoác du lịch, những chiếc khăn tay, ví đựng tiền, túi xách tay, bao gối và các tấm áo choàng thổ cẩm… đủ sắc màu rực rỡ.

Trên thực tế, nghề dệt, thêu thổ cẩm của Lào Cai có hầu hết ở các địa phương nhưng tập trung chủ yếu ở các huyện: Sa Pa, Bắc Hà, Văn Bàn. Riêng ở Sa Pa hiện có hơn chục làng nghề dệt thổ cẩm thuộc các xã Tả Phìn, San Sả Hồ, Sa Pả. Huyện Văn Bàn tập trung ở 4 làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, thuộc các xã: Dương Quỳ, Khánh Yên Hạ, Liêm Phú, Chiềng Ken. Còn huyện Bắc Hà đã thành lập HTX dệt, thêu thổ cẩm ở xã Bản Phố. HTX này đã liên kết với các cơ sở sản xuất của Hà Tây để triển khai các chương trình đào tạo, hoạt động sản xuất kinh doanh tương đối hiệu quả. Theo đánh giá của khách du lịch, 3 loại vải thổ cẩm của Lào Cai được ưa thích hơn cả là thổ cẩm của người Mông (Bắc Hà), với gam màu và họa tiết hoa văn sặc sỡ, quyến rũ, thổ cẩm của người Mông (Sa Pa) có gam mầu đất, chàm khiêm nhường, lặng lẽ, thổ cẩm của người Tày (Văn Bàn) có hai gam mầu chủ lực là xanh và trắng sang trọng mà giản dị.

Đến với Lào Cai, mỗi du khách không quên tìm mua một vài món đồ được làm từ thổ cẩm, vừa để tìm hiểu nét văn hóa của đồng bào nơi đây vừa làm quà cho người thân và là món đồ kỷ niệm sau chuyến du hành. Để rồi lưu luyến mãi mảnh đất và con người giàu bản sắc văn hóa dân tộc, thắm đượm tình người nơi địa đầu phía Bắc Tổ quốc.

Làng thổ cẩm Tả Phìn

Làng thổ cẩm Tả Phìn thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa Pa khoảng 17km về hướng đông. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các lễ hội như tết nhảy của người Dao đỏ, lễ ăn thề, lễ mừng nhà mới của đồng bào các dân tộc, Tả Phìn còn được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến bởi ở đó có một làng nghề thổ cẩm nổi tiếng.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Những năm gần đây, khi du lịch Sa Pa phát triển đã làm xuất hiện một thị trường mua bán các đồ thổ cẩm với nhu cầu mua sắm của khách du lịch ngày càng tăng cao. Nắm bắt được tình hình đó, được sự giúp đỡ của huyện, làng thổ cẩm Tả Phìn đã được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1998 cho đến nay.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Sản phẩm của làng dệt thổ cẩm Tả Phìn đủ kiểu dáng và sắc màu trông thật bắt mắt. Một vài sản phẩm chính có thể kể đến là: những chiếc ba lô, túi khoác du lịch, những chiếc khăn, túi xách tay, ví đựng tiền, các tấm áo choàng thổ cẩm… với đủ sắc màu rực rỡ. Những sản phẩm này hoàn toàn do bàn tay khéo léo tài hoa của các chị em người Mông, người Dao tạo nên với những đường nét hoa văn được thể hiện qua các họa tiết cây cỏ hoa lá, chim muông thật tinh tế luôn gây được sự tò mò hiếu kỳ và đặc biệt hấp dẫn các khách du lịch đến với Sa Pa. Các sản phẩm hàng hoá làm ra ở đây được “xuất khẩu tại chỗ” bằng cách bán trực tiếp cho khách hoặc có thể bán gián tiếp cho du khách thông qua việc cung cấp các mặt hàng này cho các quầy thổ cẩm ở chợ văn hoá dân tộc, các cửa hàng bán đồ lưu niệm của thị trấn Sa Pa. Tiếng tăm thổ cẩm Tả Phìn đã được vang xa qua những lần triển lãm thổ cẩm ở các hội chợ tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh. Nhiều tổ chức, cá nhân từ Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đă đặt hàng làng thổ cẩm Tả Phìn để bán lại cho khách. Thổ cẩm Tả Phìn còn được xuất khẩu sang cả các thị trường ngoài nước như Mỹ, Pháp, Ðan Mạch…

Thổ cẩm là một món quà không thể thiếu được cho du khách mỗi lần đặt chân tới Sa Pa. Ðối với người dân tộc vùng cao, thổ cẩm không chỉ để dùng trang trí, tô điểm thêm cho sắc đẹp mà còn là vật kỷ niệm của tình yêu hay trong ngày cưới của các đôi trai gái. Những đường nét hoa văn thể hiện trên tấm thổ cẩm là những tinh hoa của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc làm cho thổ cẩm Sa Pa không thể hoà lẫn được với bất cứ sản phẩm thổ cẩm của vùng nào.

Làng nghề ươm tơ Cổ Chất – NAM ĐỊNH “Hỡi cô thắt dải lưng xanh

Có về Nam Định với anh thì về

Nam Định có bến Đò Chè

Có tàu Ngô Khách, có nghề ươm tơ”

Câu ca đưa ta về với làng nghề ươm tơ làng Cổ Chất, xã Phương Đình, huyện Trực Ninh, Nam Định. Ngôi làng nhỏ nằm bên dòng sông Ninh Cơ thơ mộng…

Ấn tượng đầu tiên khi mới bước chân đến ngôi làng cổ này là đâu đâu cũng thấy những bó tơ vàng, tơ trắng óng ả phơi trên những thanh sào tre. Trong những xưởng kéo tơ, các bà các chị miệt mài làm việc trong màn khói bốc nghi ngút từ nồi nước luộc kén. Kén tằm cho vào nồi được khỏa liên tục thi nhau nhảy lên bàn kéo sợi. Sợi tơ chui qua một lỗ nhỏ rồi cuốn mình vào guồng đang quay tít.Những bó tơ trắng, vàng từ nơi đây sẽ dệt nên biết bao tà áo, tô thắm cho vẻ duyên dáng của người con gái Việt Nam.

Nghề chăn tằm, ươm tơ phát triển mạnh nhất từ sau khi thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (năm 1897), Cổ Chất nói riêng và Trực Ninh nói chung lúc đó trở thành vùng vành đai nguyên liệu cung cấp cho công ty bông vải sợi Bắc Kỳ. Ngày nay, làng còn khoảng 500 hộ theo nghề, mỗi hộ có bình quân 2 bếp ươm tơ.

Hỏi về nguồn gốc của nghề, ai nấy đều lắc đầu không nhớ, chỉ biết “đã có từ lâu lắm rồi, sinh ra đã có và cứ lớn lên là biết làm”. Nhân lực chủ yếu là phụ nữ, đàn ông phụ giúp củi than đốt lò và phơi phóng, còn trẻ em và người già thì làm những việc nhẹ nhàng hơn như phân loại kén và nhộng.

Người làng ươm cả tơ trắng và tơ vàng. Kén tằm được nhập về từ những vùng lân cận hoặc cũng có thể ở xa hơn như Thanh Hóa, Hà Nam hay Thái Bình. Sau 20-25 ngày kén tằm trưởng thành và có thể đem đi kéo sợi. Tơ sau khi phơi khô được các lái buôn đến tận nơi nhập hàng, một phần đổ cho các xưởng dệt, còn phần lớn xuất sang Lào, Thái Lan hoặc Campuchia. Ngoài ra, con nhộng sau khi tuốt kén cũng là món ăn rất ngon và bổ dưỡng – đây cũng chính là nguồn thu nhập phụ của làng.

Dạo quanh làng Cổ Chất, ta sẽ cảm thấy tâm hồn mình nhẹ bẫng bởi cảnh thanh bình của sông nước, của chùa chiền, của nhà thờ, bởi những ngôi nhà cổ, những người đàn ông, những người đàn bà ươm tơ, quay tơ, phơi tơ, cân tơ và dệt vải… Thấy yêu thêm làng quê Việt Nam…

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Những bó tơ được phơi la liệt khắp nơi

Lọc kén

Các bà các chị miệt mài làm việc trong màn khói bốc nghi ngút từ nồi nước luộc kén…

Vừa ra tơ, người thợ phải vừa quấy tay thật đều

Vòng tơ quay tít của bà

Những ruộng dâu chạy dài, mướt màu xanh

Làng nghề thổ cẩm Noọng Dẻ – NGHỆ AN

Bản Noọng Dẻ, xã Nậm Cắn (Kỳ Sơn) nằm cách Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn khoảng 10 km, về phía Đông và cách Thị trấn Mường Xén chừng 10 km về phía Tây. Nép mình bên Quốc lộ 7A và nằm lưng chừng giữa đại ngàn Trường Sơn, Noọng Dẻ để lại ấn tượng cho những ai từng có dịp qua đây bởi những nếp nhà sàn thấp thoáng sườn non, và sắc màu thổ cẩm…

Bản là nơi quy tụ của 113 gia đình dân tộc Thái. Bao đời nay, người dân Noọng Dẻ sống dựa vào núi rừng, chủ yếu bằng nghề phát nương làm rẫy. Chị em phụ nữ còn có thêm nghề dệt thổ cẩm, một nghề truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Thái.

Nghề dệt thổ cẩm có lúc tưởng chừng như đứng trước nguy cơ mai một bởi sự xâm chiếm thị phần của các sản phẩm dệt công nghiệp, nhưng người dân Noọng Dẻ quyết tâm giữ lấy nghề tổ tiên để lại, lớp trước truyền nghề cho lớp sau, không ai nỡ vứt bỏ khung cửi khỏi hiên nhà. Mấy năm gần đây, một số mặt hàng dệt thổ cẩm có xu hướng trở lại khẳng định vị trí của mình, đặc biệt là đối với chị em phụ nữ miền núi, vùng cao.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024
Sản phẩm dệt thổ cẩm của chị em phụ nữ Noọng Dẻ

Nhờ đó, sản phẩm của chị em phụ nữ Noọng Dẻ có thêm cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ và khẳng định thương hiệu của mình. Chị em lập thành Hợp tác xã Dệt thổ cẩm và bầu chị Lương Thị Văn, Chi hội trưởng Hội Phụ nữ bản làm Chủ nhiệm. Tính đến nay, cả bản đã có khoảng 100 hộ gia đình theo nghề dệt thổ cẩm và đem về một nguồn thu đáng kể, góp phần cải thiện cuộc sống gia đình. Năm 2011 vừa qua, người dân Noọng Dẻ hết sức vui mừng và phấn khởi khi được đón nhận danh hiệu Làng nghề Dệt thổ cẩm.

Sản phẩm dệt thổ cẩm (váy, áo, khăn piêu, túi, ví, thắt lưng) của chị em phụ nữ Noọng Dẻ luôn được khách hàng gần xa ưa chuộng bởi chất lượng tốt, mẫu mã phong phú, tinh tế trong cách trang trí hoa văn và hài hòa trong phối màu… Tay nghề của các chị ngày càng được nâng cao, có những cơ sở kinh doanh ở Hà Nội đưa nguyên liệu và bản thiết kế mẫu về tận nơi để thuê chị em dệt. Nhưng điều còn băn khoăn đối với nghề dệt thổ cẩm ở Noọng Dẻ là thị trường tiêu thụ còn khá hạn hẹp, mới chỉ dừng lại trong địa bàn huyện Kỳ Sơn và một vài huyện lân cận, một số ít bán cho khách du lịch.

Bên cạnh đó, tuy đã được công nhận làng nghề nhưng bản Noọng Dẻ vẫn chưa có xưởng sản xuất tập trung và trưng bày sản phẩm. Trong khi đó, bản lại cách Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn không xa, lại nằm cạnh tuyến đường chiến lược về giao lưu kinh tế và phát triển du lịch, dịch vụ; không ít khách du lịch qua đây muốn dừng lại để chọn mua một số sản phẩm làm quà lưu niệm và dành tặng người thân, bạn bè nhưng không có gian hàng trưng bày nên đành phải đi qua.

Chị Lương Thị Văn, Chủ nhiệm HTX Dệt thổ cẩm Noọng Dẻ chia sẻ: “Nếu được các ban ngành cấp trên hỗ trợ mở xưởng dệt và trưng bày sản phẩm ở ngay tại bản và gần Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn thì việc tiêu thụ sẽ được dễ dàng hơn, đầu ra ngày càng ổn định và chị em sẽ sống được với nghề. Từ đó, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”.

Tường Anh Nguồn: Báo Nghệ An (12/3/2012)

Nghệ thuật ghép vải của người HMông

Phương pháp chắp ghép vải có lẽ là dấu vết của nền “văn minh da thú” vốn có từ xa xưa…là một trong những yếu tố để nhận biết “người Hmông mình với nhau” dù họ có ở nhóm nào đi nữa. Những nét xa xưa ấy đã được cộng đồng người Hmông ở Kỳ Sơn, Nghệ An phát triển thành một loại hình nghệ thuật thực thụ – Nghệ thuật ghép vải

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Ghép vải là phương pháp cắt tạo hoa văn trên một mảnh vải để chắp (may) trên những mảnh vải nền khác nhằm tạo ra một loại hoa văn trang trí với các cấp độ màu sắc khác nhau. Tất cả các chi trong dân tộc người Hmông, dù là người Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Đỏ hay Hmông Đen… đều có kỹ thuật thêu và ghép vải khá tinh vi, nhưng để tạo nên những tác phẩm thực sự làm rung động lòng người, để tạo nên những sản phẩm thủ công xuất khẩu đến nhiều quốc gia thì có lẽ chỉ có ở xã Huồi Tụ của huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

Mỗi một hoạ tiết hoa văn của người Hmông Kỳ Sơn luôn chứa đựng các ý nghĩa hết sức khác nhau, là một câu chuyện kể về muôn mặt cuộc sống của mỗi người Hmông, rất đỗi giản dị đời thường. Theo truyền thuyết của người Hmông kể lại rằng, xưa kia người Hmông cũng có chữ, song do thua trận trong cuộc chiến với người Hán nên phải chạy bộ và để giữ lại chữ viết của mình không còn cách nào khác là nhờ người phụ nữ thêu, chắp chữ lên váy. Đó là những hoa văn dạng cầu vồng để cầu mong mưa thuận gió hoà, ruộng đồng tốt tươi, hoa văn hình con ốc sên để nhắc nhở các công việc ruộng đồng bởi ngày ngày lên nương họ thường gặp những con ốc sên ở đó, rồi hoạ tiết hoa gai biểu tượng cho nỗi nhớ nhung của người phụ nữ Hmông khi mang thai, họ rất nhớ chồng con mỗi buổi lên nương, bên cạnh họ chỉ có những cây hoa gai làm bạn nên họ đã thêu những bông hoa gai lên cổ áo, ngực áo, tay áo để đánh dấu nỗi nhớ của mình

Các dạng mẫu hoa văn được truyền từ đời này được truyền từ đời này sang đời khác, từ người này sang người khác một cách tự nhiên, ở bất cứ đâu và trở thành thói quen, thành yếu tố tâm lý thẩm mỹ mang tính cộng động. Khi tạo văn bằng phương pháp thêu, người Hmông Kỳ Sơn rất chú ý đến cách pha màu sao cho mỗi mảng hoa văn đều có chiều sâu và những đường nét chủ đạo đều nổi bật, chính vì vậy sự phân bố hoa văn của họ luôn gây được ấn tượng đối với bất kỳ một khách hàng nào.

Sản phẩm ghép vải của Kỳ Sơn đủ kiểu dáng và sắc màu trông thật bắt mắt. Một vài sản phẩm chính có thể kể đến là: những chiếc ba lô, túi khóac du lịch, những chiếc khăn, túi xách tay, ví đựng tiền, … với đủ sắc màu và thật tinh tế. Các sản phẩm hàng hóa làm ra ở đây được bán tại rất nhiều cửa hàng sang trọng ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hội An…, xuất khẩu không chỉ sang các quốc gia lân cận như Lào, Thái Lan mà còn có mặt ở Anh, Pháp… và cũng thật tự hào khi các sản phẩm của nghệ thuật chắp vải của mảnh đất Kỳ Sơn đã được Tổ chức 10.000 làng nghề “ten thousands villages” phân phối trên thị trường của Mỹ…

Làng nghề dệt thổ cẩm ở Quỳ Châu Quỳ Châu – vùng đất của những ché rượu cần cùng những cô gái Thái xinh đẹp trong điệu múa xòe của vùng sơn cước…là mảnh đất của nghề dệt thổ cẩm nổi tiếng mà ở đó bạn không khó nhận ra màu xanh của cây rừng, màu hồng, màu đỏ của những cánh hoa rừng, màu vàng rực rỡ của ánh nắng mặt trời… trên từng khuông vải. Và ở đó, bạn cũng sẽ nhận ra tình yêu và niềm đam mê nghề như một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Thái Việt Nam.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Quỳ Châu đã có từ rất lâu đời. Trước đây, sản phẩm thổ cẩm được làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái về nhà chồng. Đã là cô gái Thái thì ai cũng phải biết dệt thổ cẩm và thêu thùa, họ thường tự tay làm những bộ chăn, đệm, những chiếc khăn Piêu… và thổ cẩm đã trở nên một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của họ.

Con gái Thái từ 6 đến 7 tuổi phải làm quen với bông, sợi, dệt vải, mười hai, mười ba tuổi bắt đầu làm quen với công việc thêu thùa. Mặc dù vất vả với việc làm nương rẫy, nhưng mỗi khi có thời gian là người phụ nữ Thái lại miệt mài bên khung cửi. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi đường nét hoa văn, mỗi gam màu phối trộn dường như còn thấm đượm tình yêu lao động, yêu quê hương. Từ những khung dệt thổ cẩm thô sơ được tạo thành từ những thanh tre, ống nứa… người phụ nữ Thái đã dệt nên những miếng thổ cẩm để trang trí cho từng loại sản phẩm mà họ cần. Vì thổ cẩm được dệt hoàn toàn bằng tay nên độ chặt, lỏng, mềm cứng của sản phẩm đều được người phụ nữ Thái điều chỉnh một cách tinh tế.

Tính cách và tuổi tác được thể hiện rất rõ trên những sản phẩm thổ cẩm của người Thái. Với những cô gái Thái đang yêu thì không thể giấu nổi tình cảm của mình bằng những gam màu sáng chủ đạo. Còn những người phụ nữ lớn tuổi thì thiên về những gam màu trầm, về những đường nét rắn rỏi và đậm nét suy tư.

Hàng dệt thổ cẩm của người Thái ở Quỳ Châu với những họa tiết hoa văn phong phú, nhã nhặn đã thực sự chiếm được cảm tình của nhiều khách hàng trong nước và quốc tế. Những chiếc khăn Piêu trên cơ sở những mô tuýp truyền thống, kết hợp với những nét hiện đại hay những chiếc túi xách xinh xắn được dệt bằng chất liệu tơ tằm đã có mặt không chỉ ở nhiều thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh mà cũng đã được xuất khẩu sang Nhật Bản và nhiều quốc ở Châu Âu như Pháp, Bỉ, Ý… Và đặc biệt nhất có lẽ là nghệ thuật nhuộm màu sử dụng các loại chất liệu cỏ cây, hoa, lá của người Thái mà không có nơi nào có thể sánh được đã nâng giá trị hàng dệt Quỳ Châu lên thành một loại mặt hàng thời trang cao cấp.

Mời bạn đến với Quỳ Châu, đến với một vùng đất cổ thuộc vành đai văn hoá Phủ Quỳ, nơi có những người Việt cổ đã sinh sống từ hàng trăm ngàn năm trước, nơi được thiên nhiên ban tặng những phong cảnh núi rừng hùng vĩ dọc dòng sông Hiếu thơ mộng, nơi có vô số phong cảnh hang động và dòng thác trắng ngần tuyệt tác của thiên nhiên với những cái tên đã trở nên rất đỗi quen thuộc như Thẩm Bua, Thẩm Ồm, Tạt Ngoi, Thác Đũa..và là nơi giai điệu của những tiếng thoi đưa luôn mãi ngân vang./.

Làng nghề dệt thổ cẩm Châu Tiến Làng Hoa Tiến, xã Châu Tiến – nơi được coi là cái nôi dệt thêu thổ cẩm của đồng bào Thái (Quỳ Châu- Nghệ An).

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Ở Hoa Tiến nhà nào cũng có khung dệt, không những người già, trung niên mà kể cả những bé gái đều biết dệt, thêu thổ cẩm. Vào dịp cuối năm hay sắp đến ngày lễ hội không khí bản làng lại rộn hẳn lên. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các bà, các chị đã cho ra thị trường hàng trăm sản phẩm phong phú, đa dạng, từ thổ cẩm tấm, quần áo, ga trải giường, khăn trải bàn cho đến những chiếc cặp, chiếc ví, cà vạt, khăn quàng cổ, đội đầu với những nét hoa văn tinh tế và độc đáo. Đặc biệt, sản phẩm thổ cẩm của Hoa Tiến được nhuộm bằng các loại cây rừng nên có màu sắc tự nhiên, không giống với bất kỳ sản phẩm thổ cầm của các vùng, miền khác.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Chính vì điều đó mà thổ cẩm Hoa Tiến rất được du khách ưa chuộng, nhất là khách du lịch quốc tế. Hiện, thổ cẩm Hoa Tiến đã có mặt ở các hội chợ thương mại lớn tổ chức tại Hà Nội, phố cổ Hội An, sang cả Lào, Thái Lan.

Làng dệt Mỹ Nghiệp – NINH THUẬN

Nghề dệt của người Chăm ở Mỹ Nghiệp không những mang nét đẹp truyền thống của thổ cẩm mà còn mang nét đặc sắc của văn hoá Chăm với các đường nét lạ độc đáo với nhiều loại sản phẩm thổ cẩm đa dạng như: xàrông, khăn choàng, nón, áo khoác…

Nằm cách thị xã Phan Rang khoảng 10 km về hướng Nam, làng dệt Mỹ Nghiệp thuộc huyện Ninh Phước là làng nghề dệt cổ truyền duy nhất còn lại của người Chăm ở Ninh Thuận nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm trong những năm gần đây. Theo người địa phương kể thì vua Polnưga – đã dạy cho con cháu làm nghề xe sợi, dệt vải này từ thế kỷ thứ 11. Bà là một nghệ nhân tạo ra những hoa văn rất đặc sắc trên nền vải, và chính bà đã tạo ra nghề dệt này và truyền lại cho dân làng.

Ngày xưa người dân Mỹ Nghiệp tự trồng bông làm nguyên liệu sản xuất và dùng cây Chùm Bầu, cây Mo, bùn non làm phẩm nhuộm và dùng các khung gỗ thô sơ làm công cụ tạo ra sản phẩm nổi tiếng về chất lượng cũng như nghệ thuật trang trí hoa văn trên vải, cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của cộng đồng người Chăm và các cư dân quanh vùng như Raglai, Churu, Êđê.

Trải qua bao nhiêu thăng trầm, đến nay nghề dệt của người Chăm ở Mỹ Nghiệp vẫn được lưu truyền và phát triển mạnh. Đến Mỹ Nghiệp hôm nay, du khách được chứng kiến những đôi bàn tay thuần thục của những người thợ, sự khéo léo của các nghệ nhân làm nên những sản phẩm thổ cẩm tuyệt đẹp. Với kỹ thuật dệt đã đạt đến trình độ tinh xảo, phụ nữ Chăm đã tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau như váy, áo, khăn, vải trải bàn, trải giường, dây thắt lưng … với nhiều loại hoa văn khác nhau như: hoa văn quả trám (bingu tamun), hoa văn cách điệu hình rồng (bingu hăng), chân chó (takay asâu), chân chim (takay wa)…Bạn sẽ thật sự bị cuốn hút qua những tấm thổ cẩm, sống động bởi nhiều màu sắc lạ vừa chân phương, mộc mạc bởi chất liệu và cách thể hiện đường nét hoa văn… Gần như hoa văn ở mỗi tấm thổ cẩm mỗi khác, bởi người thợ, nghệ nhân Mỹ Nghiệp muốn làm theo sự sáng tạo, theo sự ngẫu hứng của mình, để không trùng lặp và đơn điệu, tuy nhiên điều dễ nhận ra trong từng tấm thổ cẩm là sự gởi gắm những ý tưởng, tình cảm của những người Chăm nơi đây bức thông điệp của một nền văn hóa Chămpa rực rỡ từ lâu đời còn lưu truyền cho đến ngày nay.

Nói đến thổ cẩm Chăm ở Mỹ Nghiệp người ta thường nói đến sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại đã ngày càng tạo cho mình một chỗ đứng trên thị trường trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây, khi khách du lịch tìm đến Mỹ Nghiệp ngày càng nhiều, làng dệt bắt đầu làm ra các mặt hàng lưu niệm như: cà vạt, túi xách, bóp, ví đầm, áo ghi lê…bên cạnh các sản phẩm truyền thống như khăn trải bàn, khăn trang trí, áo choàng… Đặc biệt tấm vải Xàrong (Tukman) được dùng làm trang phục cho các vị vua và hoàng hậu thời xưa với những họa tiết hoa văn tinh xảo bởi với chất liệu rất mềm mại được nhiều khách nước ngoài rất ưa chuộng.

Mời bạn đến với kỹ thuật của người Chăm chúng tôi…

Các công đoạn hình thành sản phẩm:

Đưa sợi vào sa quay để quay vào từng ống nhỏ theo từng màu. Đưa vào khung móc để pha màu chỉ Sau đó mới ráp vào khung để chuẩn bị dệt Có hai loại khung: Khung ngắn (dalah) và khung dài (băn)

Khung dệt

Có hai loại khung: Khung ngắn và Khung dài

Khung ngắn: Các nghệ nhân dùng 7 cây go bằng tre để tạo hình hoa văn. Khung ngắn chỉ tạo ra những sản phẩm bề ngang 0,9m và dài 3,4m. Những sản phẩm này người nghệ nhân hoàn thành trong ba ngày.

Khung dài: Dùng 7 hòn go làm bằng đá San hô(10X6cm) được buộc bởi các sợi dây để tạo hoa văn. Khung dài cho ra những sản phẩm bề ngang từ 2cm đến 30 cm, bề dài từ 100 đến 120 m, bình quân mỗi ngày người nghệ nhân dệt khoảng 5 đến 6m. Hoàn thành sản phẩm từ 25 đến 30 ngày.

Các hình hoa văn thường có dạng:

Hoa văn quả trám (bingu tamun) Hoa văn cách điệu hình rồng (bingu hăng) Bông hình thoi Bông chân chó (takay asâu) Bông chân chim (takay wa) Bông mai Bông gùrék.

Làng nghề thổ cẩm bên bờ sông Liêng – QUẢNG NGÃI Mùa hạ cũng như mùa xuân, vào những dịp lễ hội hay hội làng, lễ cưới của người H’rê, sắc màu thổ cẩm làng Teng lại có dịp được khoe sắc giữa thiên nhiên, đất trời.

Không chỉ nổi tiếng là mảnh đất anh hùng đã đi vào sử sách, làng người H’re thuộc huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi còn được biết đến là làng nghề thổ cẩm với những bộ trang phục độc đáo và tinh tế.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Từ ngã ba Thạch Trụ, huyện Mộ Đức vòng qua những con đường đèo dốc trên 30km, rẽ về hướng bắc chừng non cây số là đến làng Teng. Làng thổ cẩm này nằm sát phía dưới chân đèo Lâm, bên dòng sông Liêng hiền hòa. Đến đây, ghé bất kỳ ngôi nhà nào trong thời điểm nông nhàn cũng thấy các cô gái, các mí già miệng bỏm bẻm nhai trầu, tay nhẹ nhàng dệt những tấm thổ cẩm với những hoa văn, họa tiết sống động. Người H’rê có nghề truyền thống là dệt thổ cẩm với những nét độc đáo riêng từ nguyên liệu, hoa văn đến màu sắc sản phẩm. Nguyên liệu để dệt, nhuộm nên những chiếc váy, áo thổ cẩm đều có trong thiên nhiên như bông vải, vỏ cây, rễ cây, củ các loại cây… Nguyên liệu chính là bông, được người ta đem về phơi nắng cho cánh nở bung, sau đó đánh cho tơi xốp rồi kéo thành sợi. Người H’rê sử dụng rất nhiều màu sắc, tuy nhiên, được ưa chuộng nhất là màu đỏ và màu đen. Hoa văn được thể hiện trên những tấm thổ cẩm của người H’rê cũng rất đa dạng và phong phú, biểu hiện sự gần gũi với con người như mây trời, sông suối, núi rừng, nương rẫy, chim thú… Ở những tấm choàng, tấm địu trẻ nhỏ, váy phụ nữ, hoa văn có mô típ hình học như hình thoi, hình quả trám, hình chữ nhật, hình vuông… tạo thành những ô nối tiếp nhau, hoặc hoa văn đường thẳng, đường lượn sang, tạo nên hình dáng cách điệu như con sông, con suối, hay hoa văn có hình giống các loài vật như mỏ gà, mũi tên bay, tổ ong, da rắn, da trăn, lá cây… Nghệ thuật dệt hoa văn này độc đáo ở chỗ là phương pháp kỹ thuật dệt cài hoa văn, chứ không phải là những đường thêu bằng chỉ màu trên nền vải như một số dân tộc anh em khác. Các họa tiết hoa văn của người H’rê rất khiêm nhường, lặng lẽ, các gam màu hòa sắc chung với các màu khác, không rực rỡ, màu mè.

Theo thống kê chưa đầy đủ, có đến 20 mẫu hoa văn cổ truyền, nhưng do thất thoát nên hiện còn lưu truyền được 10 mẫu. Hoa văn đơn giản nhất được dệt bởi 36 sợi, phức tạp nhất được dệt bởi 56 sợi. Để dệt một tấm thổ cẩm hoàn chỉnh, người thợ thủ công phải tốn thời gian khoảng nửa tháng, có khi lâu hơn tùy theo kích thước của tấm thổ cẩm, nhưng trước sự xâm nhập của các loại vải đang thịnh hành trên thị trường thì công làm ra một tấm vải như thế không thể lợi nhiều về kinh tế. Tuy vậy, việc dệt vải thổ cẩm đó như một cách “giữ lửa cho làng” vậy. Những năm gần đây, sự giao thương giữa miền xuôi với miền ngược mở ra, người H’rê bắt đầu quen với kiểu ăn mặc mới, dần bỏ sắc phục truyền thống và ăn mặc như người miền xuôi. Nghề dệt thổ cẩm truyền thống cũng từ đó mà mai một dần. Tuy nhiên, nhằm hỗ trợ việc bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, một dự án duy trì nghề dệt thổ cẩm cho làng Teng được Quỹ Hỗ trợ bảo tồn nghệ thuật văn hóa dân gian đang được triển khai tại đây. Hiện tại, có khoảng 30 nghệ nhân của làng đang mở lớp truyền nghề cho gần 100 thiếu nữ. Những khung cửi bắt đầu rộn lên âm thanh của ngày mùa. Không còn cảnh lặn lội vào rừng tìm cây cho màu để nhuộm vải hoặc phải trồng bông như ông bà của họ, các thiếu nữ H’rê chỉ mất một giờ đi xe máy là có trong tay các nguyên liệu cần cho một vuông vải thổ cẩm. Có điều, các bà, các mẹ vẫn phải đứng bên họ trong suốt nhiều tháng trời thì thổ cẩm làng Teng mới giữ đúng thương hiệu của mình.

Huyện Ba Tơ phối hợp với nhà tài trợ đang khẩn trương mở thêm các điểm trưng bày quảng cáo sản phẩm truyền thống này. Để làm được điều này, quan trọng là nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế, làm ra nhiều loại sản phẩm đẹp, tiện lợi hấp dẫn, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Trong tương lai không xa, làng Teng sẽ trở thành điểm du lịch nằm trong tour du lịch phía Nam của tỉnh Quảng Ngãi. Lúc đó, sản phẩm thổ cẩm của làng trở thành hàng lưu niệm mang đậm tính văn hóa, sẽ đứng vững và sớm vươn ra thị trường. Tới đây, trong những ngôi nhà của bản làng người H’rê sẽ còn vẹn nguyên những khung dệt thổ cẩm, tiếng lách cách rộn ràng lại vang lên, làm níu chân du khách ở lại với vùng cao Quảng Ngãi.

Làng lụa Duy Trinh – QUẢNG NAM

Làng Đông Yên-Thi Lai, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Duy Trinh là ngôi làng nổi tiếng về nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Lụa ở đây nổi tiếng khó có nơi nào sánh kịp. Trong lịch sử, ở thời điểm hưng thịnh của ngành trồng dâu, nuôi tằm tại địa phương, diện tích dâu lên đến 160ha và gần 200 hộ tham gia nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải.

Đến thăm làng nghề du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các công đoạn và thao tác để tạo ra những sản phẩm nổi tiếng.

Làng dâu tằm Đông Yên – Thi Lai

Cũng như làng dệt Mã Châu, từ những thế kỷ trước làng Đông Yên – Thi Lai đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải với những mặt hàng phổ biến như lãnh, sa nhiễu, đũi, the, đệm…từng theo chân các thương thuyền ngoại quốc đi khắp vùng biển Đông. Ở thời điểm hưng thịnh nhất, làng nghề này có diện tích trồng dâu lên đến 160 ha và có gần 200 hộ tham gia sản xuất tơ lụa theo phương thức thủ công. Do biến động của lịch sử, cùng với nhiều nghệ nhân của làng dệt Mã Châu, các nghệ nhân làng Đông Yên – Thi Lai cũng đã làm cuộc hành trình vào Nam và góp phần tạo lập nên những làng dệt có qui mô lớn như Bảy Hiền, Gò Vấp… tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.ày nay. Làng dâu tằm Đông Yên – Thi Lai thuộc xã Duy Trinh – huyện Duy Xuyên.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Làng nghề bông vải sợi làng Lập Thạch – QUẢNG TRỊ

Lập Thạch là một trong năm thôn của xã Triệu Lễ, Đông hà có điều kiện tự nhiên thích hợp cho việc trồng bông dệt vải. Đây là một trong những làng có truyền thống lịch sử lâu đời từ khi mở đất (khoảng thế kỷ XV) cho đến những năm tháng kháng chiến chống Pháp, Mỹ hôm qua. Trong giai đoạn cách mạng mới Lập Thạch là một làng có phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở khá sớm, trở thành làng văn hóa điển hình, phát triển vững mạnh về mọi mặt kinh tế – chính trị – xã hội trên vùng đất Đông hà Quảng Trị.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Ngoài sản xuất nông nghiệp trồng lúa và màu, trồng bông quay tơ dệt vải là một nghề truyền thống trong cơ cấu kinh tế gia đình của người dân lao động nơi đây. Các công đoạn sản xuất vẫn theo lối thủ công, gia đình. Đây là công việc khép kín qua nhiều công đoạn công phu, vất vả; từ gieo hạt trồng bông đến thu hoạch rồi từ bông kéo sợi và dệt trên khung cửi. Chính vì vậy, từng hộ gia đình tận dụng được lực lượng lao động, tận dụng được thời gian nhàn rỗi phân công nhau cùng làm tạo ra sản phẩm, nâng cao thu nhập ổn định cuộc sống. Đàn ông, trẻ em thường thực hiện những công việc ngâm sợi, đạp sợi, phơi sợi, đánh ống… Đàn bà con gái thì móc vải và dệt trên khung cửi. Sản phẩm làm ra ở đây là vải trắng gồm hai loại vải to và vải mịn (muốn có vải đen và vải màu họ đưa nhuộm bằng phương pháp thủ công). Trong điều kiện ngày trước khi mà vải vóc còn khan hiếm thì sản phẩm của nghề dệt làng Lập Thạch đã đáp ứng nhu cầu mặc rất hữu dụng đối với người dân trong vùng, một thời tiếng tăm và ưa chuộng trên đất Quảng Trị

Làng Cát Cát ở Sa Pa – LÀO CAI

Làng Cát Cát thuộc huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa Pa 2km. Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống như trồng bông, lanh, dệt vải và chế tác đồ trang sức. Đặc biệt nơi đây còn giữ được khá nhiều phong tục độc đáo mà ở các vùng khác không có, hoặc không còn tồn tại nguyên gốc.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Qua những khung dệt, người Mông tạo nên những tấm thổ cẩm nhiều màu sắc và hoa văn mô phỏng cây, lá, hoa, muông thú… Gắn liền với công đoạn dệt vải bông, vải lanh là khâu nhuộm và in thêu hoa văn, phổ biến là kỹ thuật nhuộm chàm, nhuộm nước tro thảo mộc và cây lá rừng. Vải nhuộm xong được đánh bóng bằng cách lăn vải với khúc gỗ tròn trên phiến đá phẳng có bôi sáp ong.

Ở làng Cát Cát, nghề chế tác đồ trang sức bằng bạc, đồng đã có từ lâu đời và tạo ra những sản phẩm tinh xảo. Quy trình chế tác bạc gồm nhiều công đoạn. Trước hết, họ cho bạc vào nồi trên bễ lò đun đến khi nóng chảy thì rót vào máng. Chờ khi bạc nguội lấy ra dùng búa đập, rèn sao cho thanh bạc có kích cỡ to, nhỏ, dài, ngắn, vuông, tam giác, tròn, dẹt hay kéo thành sợi. Tiếp đó, họ giũa cho thật nhẵn và nếu cần trang trí thì dùng đinh để chạm khắc, tạo hoa văn nổi hoặc chìm rồi mới uốn hình sản phẩm. Cuối cùng là bước đánh nhẵn, làm trắng và bóng. Sản phẩm chạm bạc ở Cát Cát rất phong phú, tinh xảo nhất là đồ trang sức của phụ nữ như: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn…

Một điều hấp dẫn du khách khi đến Cát Cát là người Mông ở đây còn giữ được khá nhiều phong tục tập quán độc đáo, chẳng hạn như tục kéo vợ. Khi người con trai quen biết và đem lòng yêu một cô gái, anh ta sẽ tổ chức làm cỗ mời bạn bè và nhờ các bạn lập kế hoạch “kéo” cô gái về nhà một cách bất ngờ, giữ cô trong ba ngày. Sau đó, nếu cô gái đồng ý làm vợ chàng trai thì sẽ tiến hành lễ cưới chính thức. Nếu cô từ chối thì họ cùng nhau uống bát rượu kết bạn và mọi việc trở lại bình thường như chưa có điều gì xảy ra. Lễ cưới người Mông ở Cát Cát thường được tổ chức từ 2 đến 7 ngày.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Kiến trúc nhà cửa người Mông làng Cát Cát còn nhiều nét cổ: nhà ba gian lợp ván gỗ pơmu. Bộ khung nhà có vì kèo ba cột ngang. Các cột đều được kê trên phiến đá tròn hoặc vuông. Vách được lợp bằng gỗ xẻ, có 3 cửa ra vào: cửa chính ở gian giữa, 2 cửa phụ ở hai đầu nhà. Cửa chính luôn được đóng kín, chỉ mở khi có việc lớn như đám cưới, tang ma, cúng ma vào dịp lễ Tết. Trong nhà có không gian thờ, sàn gác lương thực dự trữ, nơi ngủ, bếp và nơi tiếp khách.

Làng Cát Cát được hình thành từ giữa thế kỷ 19, các hộ gia đình cư trú theo phương thức mật tập: dựa vào sườn núi và quây quần bên nhau, các nóc nhà cách nhau chừng vài chục mét. Họ trồng lúa trên ruộng bậc thang, trồng ngô trên núi theo phương pháp canh tác thủ công, sản lượng thấp. Phần lớn nhà cửa đều đơn giản, chỉ có một cái bàn, cái giường và bếp lửa nấu nướng…

Nghề dệt thổ cẩm của người Thái ở Sơn La

Đến Sơn La du khách sẽ có dịp được thưởng thức những đặc sản nổi tiếng vùng sơn cước như cơm lam, rượu cần, múa xoè… và không thể không nhắc tới những bộ váy áo thổ cẩm được các cô gái Thái xinh đẹp dệt thủ công..

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Phụ nữ Thái ở Sơn La rất khéo tay trong việc dệt thổ cẩm. Đến nơi nào ở Sơn La bạn cũng dễ dàng tìm thấy một chiếc khung cửi dệt vải thổ cẩm. Các cô gái Thái trước khi về nhà chồng phải biết dệt thổ cẩm và thêu thùa, vì họ phải tự tay làm tặng bố mẹ chồng một bộ chăn đệm, trong đó có một chiếc khăn Piêu tặng mẹ chồng. Người Thái coi những sản phẩm dệt thổ cẩm là một phần trong đời sống vật chất và tinh thần của mình.

Ở bản Thèn Luông, Yên Châu, Sơn La, du khách có dịp chiêm ngưỡng những chồng chăn đệm sặc sỡ, trang trí bằng thổ cẩm được dệt hoàn toàn bằng tay nên độ chặt, lỏng, mềm, cứng của sản phẩm đều có thể theo ý muốn của người làm ra nó. Họ có thể dệt nên những miếng thổ cẩm để trang trí cho từng loại sản phẩm mà họ cần. Cầm trên tay mảnh vải thổ cẩm bạn sẽ cảm nhận được màu xanh của cây cối, màu vàng, trắng, hồng, đỏ của hoa rừng, màu vàng rực rỡ của ánh nắng mặt trời. Những đường nét hoa văn trên mảnh vải thổ cẩm thể hiện nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Thái Sơn La. Tính cách và tuổi tác được thể hiện rất rõ trên những sản phẩm thổ cẩm của người Thái. Với những cô gái Thái đang yêu thì không thể giấu nổi tình cảm của mình bằng những gam màu sáng chủ đạo. Còn những người phụ nữ lớn tuổi thì thiên về những gam màu trầm, với những đường nét rắn rỏi.

Nghề dệt thổ cẩm của người Thái Sơn La đã có từ rất lâu đời. Trước đây, khi kinh tế chưa phát triển, sản phẩm thổ cẩm được làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái về nhà chồng. Ngày nay, sản phẩm thổ cẩm đã có mặt trên thị trường, thậm chí còn được người tiêu dùng ở các thành phố lớn yêu thích. Nhưng không phải lúc nào người tiêu dùng ở thành phố cũng có thể mua được thổ cẩm của những người dân tộc, đặc biệt là của người Thái. Vì nhiều sản phẩm thổ cẩm đang bán ở các thành phố được dệt bằng các thiết bị công nghiệp nên chất lượng kém, chỉ dùng một hai lần đã có hiện tượng xô vải, bạc màu… Trong khi, thổ cẩm của người Thái dệt thủ công dùng đến lúc sờn đường thêu và hỏng vải nhưng các đường nét hoa văn vẫn còn đẹp.

Thổ cẩm của người Thái Sơn La với những hoạ tiết hoa văn phong phú, độc đáo đã chiếm được cảm tình của nhiều du khách trong nước và quốc tế. Nhưng hiện nay, Sơn La chưa có những làng chuyên dệt thổ cẩm, vì vậy, sản xuất manh mún, tự phát nên nhiều sản phẩm tạo ra chưa phù hợp với thị hiếu của du khách. Để thổ cẩm trở thành sản phẩm du lịch phục vụ du khách, Sơn La cần tìm ra hướng đi mới bằng việc đầu tư có hiệu quả vào trang thiết bị sản xuất, thay đổi mẫu mã sản phẩm, tạo cơ hội cho các gia đình, làng bản có nghề truyền thống được tham gia các hội chợ nhằm tìm hiểu nhu cầu thị trường, thị hiếu tiêu dùng, cho ra đời những sản phẩm thích hợp.

Có thể nói, giữ được nghề dệt thổ cẩm là giữ được những nét văn hoá cổ truyền của người Thái. Nếu biết kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại thì nghề dệt thổ cẩm của người Thái Sơn La sẽ tạo được những mặt hàng kinh tế có giá trị trên thị trường.

Nghề dệt thổ cẩm ở Thèn Luông Bản Thèn Luông cách trung tâm xã Chiềng Đông khoảng 1 km, nằm giữa hai dãy núi dài với những vườn cây ăn quả và những nếp nhà sàn xinh xắn. Nơi đây nổi tiếng với nghề dệt vải thổ cẩm lâu đời của người Thái

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Thổ cẩm theo tiếng dân tộc Thái là ” khít”. Cầm trên tay tấm vải thổ cẩm của người Thái, người ta có thể nhận thấy màu xanh của cây, màu đỏ, màu trắng, màu hồng của những bông hoa rừng, màu vàng rực rỡ của ánh mặt trời. Những người thợ khéo tay tài hoa này còn tạo thêm trên nền vải khít, mặt chăn, gối của mình những chú khỉ, chú sóc tinh nghịch trông như những bức hoạ vẽ về thiên nhiên.

Là một làng nghề truyền thống tạo nên những tấm thổ cẩm đẹp, nhưng đến nay Thèn Luông vẫn chỉ là dệt vải thủ công trên những chiếc khung dệt thô sơ làm bằng thanh tre, ống nứa, nên những sản phẩm làm ra thường không nhiều mà chỉ là những mặt hàng như túi, mặt chăn, mặt gối, riềm trang trí, khăn Piêu…Hơn nữa, nghề dệt ở đây mới phát triển theo hướng tự phát. Bà con tự dệt, tự tìm thị trường tiêu thụ, không có vốn đầu tư và sự định hướng.

Giữ được giá trị nghề dệt thổ cẩm, chính là giữ được nét văn hoá cổ truyền của đồng bào dân tộc Thái. Nếu biết kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính hiện đại thì chắc chắn nghệ dệt thổ cẩm ở Thèn Luông sẽ tạo được những mặt hàng có giá trị kinh tế cao cạnh tranh với các mặt hàng bông vải sợi trên thị trường hiện nay.

Làng nghề dệt vải lanh

Nghề thủ công truyền thống của dân tộc Mông. Ở Sơn la, dân tộc Mông có số dân đông thứ 3, cư trú chủ yếu ở vùng núi cao thuộc các huyện: Bắc Yên, Phù Yên, Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu và Sông Mã. Sơn la có 3 ngành Mông: Mông đen, Mông hoa, Mông trắng với các đặc trưng văn hoá khác nhau.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Bên cạnh việc làm nương rẫy, ruộng nước, chăn nuôi… họ có một số nghề thủ công truyền thống đạt kỹ thuật cao, mà đặc sắc hơn cả là nghề dùng sợi lanh để dệt vải.

Theo lời kể của các cụ già thì nghề dệt vải lanh đã hình thành từ rất lâu và được truyền lại qua nhiều thế hệ. Bất cứ người phụ nữ Mông nào đến tuổi trưởng thành cũng phải biết xe lanh thành sợi để dệt vải phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của gia đình. Người Mông rất ưa chuộng vải lanh bởi nó có độ bền hơn hẳn vải bông. Ngoài ra, vải lanh còn có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người Mông. Họ quan niệm rằng, sợi lanh là sợi chỉ dẫn đường cho linh hồn người chết về với tổ tiên về đầu thai lại với con cháu.

Việc dệt vải lanh còn thể hiện sự khéo tay, chăm chỉ, đó là một trong những tiêu chí để đánh giá tài năng, đạo đức, phẩm chất và cách làm ăn của chị em phụ nữ. Vỏ cây lanh được tước ra thành từng sợi nhỏ và nối với nhau một cách khéo léo để không tạo thành mấu ở chỗ nối. Đây là việc làm đòi hỏi nghệ thuật nhẹ nhàng, kiên trì, nhẫn nại. Vì vậy lúc nào phụ nữ Mông cũng đều tranh thủ tước và nối các sợi lanh kể cả lúc trên đừng từ nhà lên nương và từ nương về nhà. Bước tiếp theo, người ta mắc các sợi lanh vào khung quay cho chúng xoắn lại thành từng cuộn. Sau đó đem cuộn sợi này luộc trong nước tro. Khi giặt sạch nước tro thì sợi lanh có màu trắng. Khi sợi đã chuẩn bị sợi xong, việc dệt vải sẽ được bắt đầu.

Đồng bào dân tộc Mông dệt vải trên khung cửi đơn giản, chỉ có hai thanh gỗ tiết diện tích 12 cm x 12 cm. dài 60 cm đặt cách xa nhau khoảng 50 cm. Giữa hai thanh gỗ đó có bốn thanh ngang nhỏ hơn ghép vào hai thanh đứng tạo thành khung cửi, con thoi để dệt khá to. Khi dệt người ta buộc chúng dựa vào cột nhà, người dệt ngồi trên ghế đẩu.

Khi dệt được vải rồi, người ta đem nhuộm chàm dùng để may quần áo cho nam giới và vải không nhuộm chàm để may váy cho phụ nữ Mông trắng. Với phụ nữ Mông hoa thì họ vẽ sáp ong lên vải trắng những đường hoa văn hình học theo ý muốn sau đó mới đem nhuộm chàm. Sau khi nhuộm chàm xong họ thêu hoa, ghép vải hoa thành thành những hoa văn cầu kỳ. Mô típ hoa văn chủ yếu là những hình kỷ hà, hình chữ nhật, hình vuông, hình thoi, gam màu chủ yếu là xanh, đỏ, tím, vàng. Với phụ nữ Mông đen thì họ dùng vải lanh nhuộm chàm đen để may váy. Bên cạnh những trang phục trên, họ dùng vải lanh để may chăn, màn, tạp dề, khăn…

Ngày nay nghề dệt vải lanh ít phát triển hơn bởi trong điều kiện khoa học kỹ thuật các loại bông vải sợi được sản xuất có giá rẻ hơn và phong phú về mẫu mã, kiểu dáng nên việc sử dụng vải lanh giảm đi nhiều. Tuy nhiên, đa số phụ nữ Mông vẫn dùng vải lanh để may váy, áo, xà cạp và mỗi người về với tổ tiên cần phải có một bộ quần lanh vì họ quan niệm nếu không có quần áo lạnh khi về trời tổ tiên sẽ không nhận ra mình.

Đồng bào dân tộc Mông rất tự hào về nghề dệt vải lanh đặc sắc của mình. Cho đến nay, việc duy trì nghề này vẫn được chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm.

Làng Thổ cẩm Lăng Can – TUYÊN QUANG

Xã Lăng Can, huyện Lâm Bình (tỉnh Tuyên Quang) được thiên nhiên phú cho một phong cảnh đẹp mơ màng.

Sản phẩm thêu dệt thổ cẩm tiếng anh là gì năm 2024

Lăng Can còn hấp dẫn du khách hơn nữa bởi nơi đây vẫn giữ được nghề truyền thống trồng bông dệt vải. Thổ cẩm Lăng Can đã đi vào thơ, vào nhạc của bao thi sĩ. Câu chuyện trồng bông dệt vải của vùng đất này đã được khắc họa trong biết bao truyền thuyết, ca ngợi sức sáng tạo và đức tính cần cù của bà con bản địa…

Cứ mỗi độ xuân về, người Tày xã Lăng Can đều tổ chức lễ hội Lồng Tồng (lễ hội xuống đồng) để tạ ơn đất trời, tạ ơn tổ tiên đã sinh ra nghề trồng bông dệt vải – một cái nghề độc nhất vô nhị của vùng rừng núi Nà Hang. Bà Nguyễn Thị Đán – một nghệ nhân dệt vải ở thôn Bản Kè – khẳng định: “Hoa văn trên thổ cẩm Lăng Can không giống bất cứ hoa văn của dân tộc nào.

Thổ cẩm Lăng Can mặc vừa mềm, vừa ấm, nhưng rất thoáng, khác hẳn với thổ cẩm của một số dân tộc khác”. Bà nói: “Phong tục nơi đây quy ước con gái khi về nhà chồng phải có đủ ít nhất 12 tấm chăn bông và 4 tấm chăn đơn. Cô gái nào đảm đang sẽ dệt được nhiều chăn và đó cũng là tiêu chí để đàn ông chọn vợ”.

Tương truyền rằng, ở bản nọ của xã Lăng Can có một cô gái con nhà nghèo, quanh năm làm lụng vất vả không có trang phục đẹp như bạn bè cùng trang lứa để đi trẩy hội ngày xuân, bị chúng bạn chê cười và xa lánh. Thương con, người mẹ chỉ biết an ủi rằng, cố mà trồng bông, dệt cho thật nhiều vuông vải để bạn bè không còn chê cười nữa. Nghe lời mẹ, cô gái ngày đêm cần cù dệt vải, chất cả đầy một góc nhà. Mùa xuân ấy, bản mở hội, cô gái trưng diện những bộ trang phục do tự tay mình làm, cùng mẹ đi trẩy hội.

Bao trai làng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp lạ kỳ của cô gái nhà nghèo ấy. Ngày hội năm ấy có một sự kiện làm cả bản xôn xao là hoàng tử chán cảnh sống ở cung đình đã cùng quần thần đi du ngoạn ở vùng sơn cước. Hoàng tử ngất ngây trước vẻ đẹp của núi rừng và vẻ đẹp của những cô gái Tày Lăng Can. Hoàng tử bèn nảy ra việc tổ chức kén vợ. Thế là, cô gái con nhà nghèo ấy đã lọt vào mắt xanh của hoàng tử, nhưng nàng nhất mực khước từ, xin ở lại bản để được phụng dưỡng mẹ già. Thương người con gái hiếu thảo, hoàng tử ra lệnh cho dân cả vùng phải giữ lấy nghề trồng bông dệt vải.