Về sơ đồ tư duy khái quát kiến thức trong tâm của bài Phong cách ngôn ngữ khoa học
1. Phong cách ngôn ngữ là gì ?Phong cách ngôn ngữ là sự diễn đạt bằng hai phương diện: dạng nói và chữ viết, có thể được quy về một số kiểu nhất định. Nó còn là toàn bộ những đặc điểm về cách thức diễn đạt, tạo thành kiểu diễn đạt ở một loại văn bản nhất định. Vậy, hiện nay ở Việt Nam có nhữngphong cách ngôn ngữnào? Show
Các phong cách ngôn ngữ
I. Phong cách ngôn ngữ là gì?Phong cách ngôn ngữ là cách diễn đạt (nói và viết) trong từng hoàn cảnh và người diễn đạt nhất định, là những đặc điểm về cách thức diễn đạt tạo thành kiểu diễn đạt trong một văn bản nhất định. Soạn văn 12: Phong cách ngôn ngữ khoa học
Soạn bài Phong cách ngôn ngữ khoa họcI. Văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học1. Văn bản khoa học Văn bản khoa học gồm 3 loại chính: - Các văn bản khoa học chuyên sâu bao gồm: chuyên khảo, luận án, luận văn, tiểu luận, báo cáo khoa học… Loại văn bản này thường mang tính chuyên ngành khoa học cao và sâu, dùng để giao tiếp giữa những người làm công việc nghiên cứu các ngành khoa học. - Các văn bản khoa học giáo khoa gồm: giáo trình, sách giáo khoa, thiết kế bài dạy… về các môn khoa học Tự nhiên, Công nghệ, Khoa học Xã hội và Nhân văn. Những văn bản này ngoài yêu cầu khoa học còn có yêu cầu sư phạm, tức là phải trình bày nội dung từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, phù hợp với trình độ học sinh theo từng cấp, từng lớp; có định lượng kiến thức từng tiết, từng bài, có phần trình bày kiến thức, có phần thực hành: câu hỏi và bài tập. - Các văn bản khoa học phổ cập (khoa học đại chúng) bao gồm các bài báo, sách phổ biến khoa học kĩ thuật… nhằm phổ biến rộng rãi kiến thức khoa học cho đông đảo bạn đọc, không phân biệt trình độ chuyên môn, Yêu cầu của loại văn bản này là viết dễ hiểu, hấp dẫn. Vì vậy, có thể dùng lối miêu tả, dùng cách ví von so sánh sao cho ai cũng có thể hiểu được để đưa khoa học vào cuộc sống. 2. Ngôn ngữ khoa học - Ngôn ngữ khoa học là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp, thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là trong các văn bản khoa học: Khoa học Tự nhiên (Toán, Vật lí, Hóa học…) và Khoa học Xã hội và Nhân văn (Ngữ văn, Triết học..). - Ở dạng viết, ngoài việc sử dụng từ ngữ, ngôn ngữ khoa học còn thường dùng các kí hiệu, công thức của các ngành khoa học hay sơ đồ, bảng biểu để tổng kết, so sánh, mô hình hóa nội dung khoa học. - Ở dạng nói, ngôn ngữ khoa học có yêu cầu mức độ cao về phát âm chuẩn, về diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ; người nói thường dựa trên cơ sở một đề cương viết trước. II. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học1. Tính khái quát, trừu tượng - Trong văn bản khoa học có sử dụng một số lượng lớn các thuật ngữ khoa học. Thuật ngữ khoa học là những từ ngữ chứa đựng khái niệm của các chuyên ngành khoa học, là công cụ để tư duy khoa học. - Thuật ngữ thuộc về lớp từ vựng khoa học chuyên ngành, không giống với từ ngữ thông thường được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Do đó khi sử dụng thuật ngữ cần phải dùng đúng với khái niệm khoa học mà nó biểu hiện. 2. Tính lí trí, lôgíc - Từ ngữ trong các văn bản khoa học phần lớn là những từ ngữ thông thường, nhưng chỉ được dùng với một nghĩa. - Câu văn trong văn bản khoa học là một đơn vị thông tin, đơn vị phán đoán lôgíc. Mỗi câu văn thường tương đương với một phán đoán lôgíc, nghĩa là được xây dựng từ hai khái niệm khoa học trở lên theo một quan hệ nhất định. - Tính lí trí, lôgíc cũng thể hiện ở việc cấu tạo các đoạn văn, văn bản. Các câu trong đoạn phải được liên kết chặt chẽ, mạch lạc. Mối liên hệ giữa các câu, các đoạn phải phục vụ cho lập luận khoa học. 3. Tính khách quan, phi cá thể - Nét phổ biến của ngôn ngữ khoa học là sử dụng ngôn ngữ khách quan, phi cá thể. - Từ ngữ, câu văn mang sắc thái trung hóa, ít biểu lộ cảm xúc. Tổng kết:
III. Luyện tậpCâu 1. Bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX (Ngữ văn 12, Tập 1) là một văn bản khoa học. Hãy cho biết: a. Văn bản đó trình bày những nội dung khoa học gì? b. Văn bản đó thuộc ngành khoa học nào? c. Ngôn ngữ khoa học ở dạng viết của văn bản đó có đặc điểm gì dễ nhận thấy? Gợi ý: a. Văn bản trình bày nội dung: khái quát về văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. b. Văn bản thuộc ngành khoa học Xã hội và Nhân văn. c. Đặc điểm ngôn ngữ khoa học:
Câu 2. Giải thích và phân biệt từ ngữ khoa học với từ ngữ thông thường qua các sau trong môn Hình học: điểm, đường thẳng, đoạn thẳng, mặt phẳng….
Câu 3. Tìm các thuật ngữ khoa học và phân tích tính lí trí, logic của phong cách ngôn ngữ khoa học trong đoạn văn trong SGK. - Đoạn văn mang nhiều thuật ngữ khoa học: khảo cổ, hạch đá, mảnh tước, di chỉ xương… - Tính lí trí, logic:
Câu 4. Hãy viết một đoạn văn thuộc loại văn bản khoa học phổ cập về sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường sống. Hiện nay, môi trường sống của loài người hiện nay đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Rác thải trong sản xuất, sinh hoạt gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm không khí... Trái đất cũng ngày một nóng lên khiên cho băng tan chảy gây ra ngập lụt, bão, và sóng thần. Khi không khí bị ô nhiễm sẽ ra mưa a-xít làm hư hại mùa màng, phá hủy nhiều rừng cây và đời sống của các sinh vật cũng bị đe dọa. Những hình thức thời tiết cực đoan như: mưa đá, sương muối, băng tuyết diễn ra ngày càng nhiều. Các dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện gây ra ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe của con người… Bởi vậy, con người cần có ý thức bảo vệ môi trường để bảo vệ cuộc sống của chính mình. Bài soạn lớp 12: Phong cách ngôn ngữ khoa họcHướng dẫn soạn bài: Phong cách ngôn ngữ khoa học - Trang 71 sgk ngữ văn 12 tập 1. Tất cả các câu hỏi trong bài học đều được trả lời rành mạch và dễ hiểu. Với cách soạn sau, các em học sinh sẽ nắm tốt nội dung bài học. Ngoài ra, nếu có câu hỏi nào, các em comment phía dưới để thầy cô giải đáp Nội dung bài gồm:
I. Văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học1. Văn bản khoa học Các loại văn bản khoa học:
2. Ngôn ngữ khoa học :
II. Đặc trưng của phong cách ngôn ngữ khoa học1. Tính khai quát, trừu tượng
2. Tính lí trí, logic:
3. Tính khách quan, phi cá thể:
Câu 1: Bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng thán Tám 1945...Bài Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng thán Tám 1945đến hết thế kỉ XX là một văn bản khoa học. Hãy cho biết a. Văn bản đó trình bày những nội dung gì? b. Văn bản đó thuộc ngành khoa học nào? c. Ngôn ngữ khoa học ở dạng viết của văn bản đó có đặc điểm gì dễ nhận thấy? Trả lời:a. Nội dung thông tin:
b. Văn bản đó thuộc loại văn bản: ngành Khoa học Xã hội và nhân văn, hoặc chuyên ngành Khoa học Ngữ văn. c. Đặc điểm ngôn ngữ khoa học ở dạng viết có đặc điểm:
Câu 2: Giải thích và phân biệt thuật ngữ khoa học với từ ngữ thông thường...Giải thích và phân biệt thuật ngữ khoa học với từ ngữ thông thườngqua các ví dụ sau: điểm, đường thẳng, đoạn thẳng, mặt phẳng góc, đường tròn, góc vuông…Trả lời:
Câu 3: Hãy tìm các thuật ngữ khoa học và phân tích tính lí trí,...Hãy tìm các thuật ngữ khoa học và phân tích tính lí trí,logic của phong cách ngôn ngữ khoa học thể hiện ở đoạn văn sau: Những phát hiện của nhà khảo cổ nước ta chứng tỏ Việt Nam xưa kia đã từng là nơi sinh sống của người vượn. Năm 1960 tìm thấy ở núi Đọ (Thiệu Hóa, Thanh Hóa) nhiều hạch đá, mạnh tước, rìu tay có tuổi 40 vạn năm. Cùng năm đó phát hiện ở núi Voi, cách núi Đọ 3 km, một di chỉ xương (vừa là nơi cư trú, vừa là nơi chế tạo công cụ) của người vượn, diện tích 16 vạn m2. Ở Xuân Lộc (Đồng Nai) cũng đã tìm thấy công cụ đá của người vượn (Sinh học 12) Trả lời:
Câu 4: Hãy viết một đoạn văn thuộc loại văn bản khoa học...Hãy viết một đoạn văn thuộc loại văn bản khoa họcphổ cập sự cần thiết của việc bảo vệ môi trường sống (nước, không khí và đất).Trả lời:Bài mẫu 1: Nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống con người : 70% cơ thể người là nước. Nước chiếm một lượng lớn trong tế bào, có vai trò vận chuyển, đưa máu đi khắp cơ thể, thanh lọc thận,...Đối với đời sống hàng ngày, nước là thứ không thể thay thế : dùng cho sinh hoạt hàng ngày, nước dùng để uống, chế biến thực phẩm, để tắm rửa, dọn dẹp vệ sinh… Không những vậy nước còn được sử dụng trong phát triển các ngành kinh tế: cung cấp nước cho tưới tiêu nông nghiệp, phát triển thủy điện, sử dụng trong các nhà máy lọc sàng nguyên liệu… Không có nước sạch, cuộc sống của con người sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Nguồn nước sạch ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đang ngày càng bị ô nhiễm, nhiều dòng sông trở thành “dòng sông chết”. Hậu quả là nhiều quốc gia hiện nay đang thiếu nước sạch trầm trọng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải bảo vệ nguồn nước. Bài mẫu 2: Nước rất cần thiết cho sự sống của con người, các loài động vật và cây cối. Nhưng cần có nguồn nước sạch thì cơ thể người, động vật và cây cối mới có thể tạo thành chất dinh dưỡng. Nếu nguồn nước bị ô nhiễm thì tác hại đối với con người và muôn loài động vật, cây cối sẽ không lường hết. Cần bảo vệ nguồn nước khỏi các chất độc hại như hóa chất, các chất thải từ nhà máy, bệnh viện, … Chẳng hạn, các nhà máy, bệnh viện cần phải có công nghệ làm sạch các chất thải trước khi đưa ra môi trường xung quanh. Có như vậy mới có thể bảo vệ được sự sống. Sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học bài phong cách ngôn ngữ báo chí trong SGK ngữ văn 11 (bộ chuẩn)Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.57 KB, 71 trang ) TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo - TS. Phạm Kiều Anh. Khóa luận này chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào và kết quả nghiên cứu là trung thực không trùng với kết quả của các tác giả khác. Hà Nội, ngày 24 thảng 4 năm 2015 Sinh viên Bùi Thị Hải Yến HÀ NỘI, 2015 HÀ NỘI, 2015 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẤT CH: Câu hỏi GV: Giáo viên HS: Học sinh Nxb: Nhà xuất bản PCNNBC: Phong cách ngôn ngữ báo chí SĐTD: Sơ đồ tư duy THPT : Trung học phổ thông MỤC LỤC Trang 1.4. Phong cách ngôn ngữ báo chí 1.4.1. 1.4.2. 1.4.3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.4.4. Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế vói những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn càu hóa tạo ra những cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu càu mới đối với nền giáo dục. Vì vậy, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà đang là một ttong những yêu càu cấp thiết của giáo dục Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do điều kiện thực tế ở nước ta còn chưa phát triển nên yêu cầu đổi mới không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp truyền thống cũ mà bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế những nhược điểm của chúng. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động của ngưòi học. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS. 1.4.5. Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng.Tuy nhiên, do đặc trưng của môn học khiến cho các em HS khi học tập thường ngại học, chán học dẫn đến tình trạng không coi trọng và hứng thú với môn học này. Từ đó đặt ra một yêu cầu, muốn HS học tốt môn Ngữ văn thì GV cần phải đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp và hiệu quả để để kích thích tinh thần học tập cho các em, đưa các em đến với môn học một cách tự giác. 1.4.6. Báo chí có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi lẽ báo chí ra đời để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người. Cũng vi thế, bài Phong cách ngôn ngữ báo chí là một bài học quan trọng và có tính ứng dụng cao trong chương trình Ngữ văn 11. Tuy nhiên, chất lượng học tập môn tiếng Việt nói chung, chất lượng học và vận dụng những kiến thức về báo chí vào thực tế đời sống của HS chưa tốt. Muốn cải thiện chất lượng trong việc dạy bài Phong cách 8 ngôn ngữ báo chí nói riêng và dạy học tiếng Việt nói chung thì cần có những hình thức và biện pháp tổ chức dạy học phù họp. 1.4.7. Với mong muốn tìm ra một hình thức dạy học có sáng tạo, tạo ra những hiệu ứng học tập cho HS, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí. 2. Lích sử vấn đề 1.4.8. ■ 1.4.9. Sơ đồ tư duy (SĐTD) còn được gọi là bản đồ tư duy, là Minmap. Người có công sinh thành ra thứ phương tiện hiện đại này là Tony Buzan, một nhà tâm lí học. Khi nghiên cứu về bộ não và trí nhớ con người, ông đã phát hiện ra sức mạnh của ghi nhớ, của tư duy khi hệ thống những kiến thức bằng những đường nét và hình ảnh. Cũng tò nhận thức đó, Tony Buzan đã hình thành và tạo ra cho nhân loại một phương tiện ghi nhớ hữu hiệu - SĐTD. Theo ông, lập SĐTD là phương pháp cách mạng nhằm tận dụng các nguồn tài nguyên vô tận của bộ não. Cho đến nay, tại Việt Nam đã có nhiều sách dịch tò các công trình nghiên cứu của ông như: “Sơ đồ tư duy”, “Làm chủ trí nhớ củabạn ”, “Sử dụng trí não của bạn ”, “Sơ đồ tư duy trong kinh doanh ”, “Bản đồ tư duy cho con thông minh” và được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Adamkho cũng nghiên cứu về vấn đề này với ba cuốn: “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế”, “Làm chủ tư duy thay đổi vận mệnh” và “Con cái chúng ta đều tài giỏi”. Có thể khẳng định những công trình trên đây đã thể hiện rõ tầm quan trọng của việc sử dụng SĐTD vào các hoạt động thường ngày của con người. Việc sử dụng SĐTD thực sự giúp con người có thể ghi chú các công việc một cách đầy sáng tạo và còn có thể sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống, đem lại nhiều hiệu quả đáng kinh ngạc nhất là trong kinh doanh. Và đó cũng là những căn cứ thực tế để nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu về thứ phương tiện đặc biệt này. 1.4.10. Ở Việt Nam, SĐTD chỉ mới được biết đến ừong vài năm trở lại đây. TS.Trần Đình Châu và TS.Đặng Thị Thu Thủy là hai tác giả đầu tiên tiến hành nghiên cứu và tìm cách đưa SĐTD vào trong giảng dạy tại Việt Nam. TS.Đặng 9 Thị Thu Thủy đã có nhiều sáng kiến, đề tài nghiên cứu khoa học về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, về SĐTD và hiện nay đã được nhiều trường học áp dụng. Có thể nói, việc áp dụng SĐTD trong học các môn tự nhiên như: Toán, Lý, Hóa .là khá phổ biến. Nhưng đối với môn Ngữ văn thì còn gặp nhiều khỏ khăn. Bởi hầu hết GV chỉ dùng SĐTD khi hệ thống hóa kiến thức cuối bài hay khi ôn tập, tổng kết một mảng hay chủ đề nào đó mà thôi còn chưa mạnh dạn đưa vào các khâu trong quá trình dạy học. Do đó, chưa phát huy được hết các công dụng của SĐTD trong quá trình dạy học. Cũng vì thế, tìm hiểu SĐTD và tìm ra cách sự dụng nó vào quá trình dạy học Ngữ văn nói chung, tiếng Việt nói riêng là việc làm cần thiết. Đây là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1.4.11. ■ « * o 3.1. Mục đích nghiên cứu 1.4.12. Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra một hình thức mới khi dạy bài Phong cách ngôn ngữ báo chí, tạo ra sự sáng tạo, kích thích hứng thú học tập cho HS nhằm đem lại hiệu quả cao cho việc dạy học bài này ở trường THPT. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 1.4.13. Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài này phải hướng tới các nhiệm vụ sau: - Tổng hợp các vấn đề lý thuyết về SĐTD và phong cách ngôn ngữ báo chí (PCNNBC). - Đề xuất cách vận dụng SĐTD khi dạy học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn). - Thực nghiệm nhằm bước đầu đánh giá kết quả đề xuất. 4. Đổi tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 1.4.14. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là SĐTD trong giáo dục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 10 1.4.15. Gắn với nội dung đề tài, chúng tôi xác định khóa luận tập trung nghiên cứu cách sử dụng SĐTD vào quá trình dạy học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí, trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn). 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết 1.4.16. Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài để làm cơ sở lý luận như: các tài liệu hướng dẫn dạy học, các tài liệu về SĐTD và ứng đụng SĐTD trong dạy học 5.2. Phương pháp điều tra khảo sát 1.4.17. Khảo sát, tìm hiểu thực tiễn việc xây dựng và sử dụng SĐTD trong thực tiễn dạy học ở trường THPT, trong đó có môn Ngữ văn. 5.3. Phương pháp thực nghiệm 1.4.18. Thông qua quá trình điều tra, khảo sát dựa vào đó tiến hành làm giáo án thực nghiệm. Dùng giáo án thực nghiệm để lên lớp và đánh giá hiệu quả đạt được, ưu - nhược điểm khi sử dụng SĐTD vào bài dạy. 6. Bổ cục khóa luận 1.4.19. Bố cục được triển khai làm 3 phần: mở đầu, nội dung, kết luận Phần nội dung được chia thành 3 chương: 1.4.20. Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí 1.4.21. Chương 2: Dạy học bài Phong cách ngôn ngữ báo chí trong SGK Ngữ văn 11 (bộ chuẩn) có sử dụng sơ đồ tư duy Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 1.4.22. NỘI DUNG Chương 1 11 1.4.23. Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ Cơ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC sử DỤNG sơ ĐỒ TƯ DUY VÀO DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ BÁO CHÍ 1.4.24. 1.1 Tư duy và sự phát triển tư duy con người 1.1.1 Giới thiệu chung về tư duy con người 1.4.25.Trong cuộc sống hàng ngày, mọi hoạt động của con người đều gắn liền với tư duy. Hoạt động nhận thức của con người được thể hiện qua quá trình trước khi bắt tay vào hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, mỗi cá nhân đều đã có sẵn dự án trong đầu. Dự tính đó được định hình bởi khả năng phân tích, suy nghĩ và tư duy.Trên cơ sở đó, con người dần dần phát hiện ra thao tác tư duy. Nói một cách khác, tư duy chính là căn cứ để con người xác định và thực hiện các hành động để chiếm lĩnh thế giói. Bởi yậy, tư duy là hoạt động chủ đạo của mỗi cá nhân. Vậy tư duy là gì? 1.4.26.Bàn về tư duy, cho đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4: Tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt - bộ não người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng khái niệm, sự phán đoán, lý luận 1.4.27.Trong khi đó, Từ điển tiếng Việt cho rằng: “Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào nhận thức và phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức, những biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lf \ Với quan niệm này có thể nhận thấy, tư duy là một mức độ nhận thức mới mẻ về chất so với cảm giác và tri giác. Khác với cảm giác và tri giác, tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong sự yật, hiện tượng. Tư duy của mỗi người được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân họ nhưng nội dung và tính chất của tư duy được quy định bởi trình độ nhận thức chung, tồn tại trong một giai đoạn phát triển xã hội lúc đó. Do vậy, cũng như mọi hoạt động tâm lý khác, tư duy con ngưòi mang bản chất xã hội. Hoạt động tư 12 duy của con người là quá trình hoạt động nhận thức có mở đầu, diễn biến và kết thúc rõ ràng. Quá trình này mang tính gián tiếp và khách quan nảy sinh trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Nghiên cứu về tư duy con người, các nhà khoa học đã tìm ra tư duy con ngưòi có những đặc điểm cơ bản sau: 1.4.28. Trước hết, nói đến tư duy người ta nhắc đến tỉnh “có vẩn đề” của tư duy. Không phải trong bất cứ hoàn cảnh nào tư duy cũng xuất hiện. Trên thực tế, tư duy chỉ xuất hiện khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống “cớ vẩn đề”. Khi đó, những sự hiểu biết sẵn có, những phương pháp thường dùng không đủ để giải quyết vấn đề thì con người phải tìm ra cách thức giải quyết mới, khi đó buộc con người phải tư duy. 1.4.29. Nhắc đến tư duy, người ta thường nhắc tới một hoạt động có tính gián tiếp của tư duy. Đây được coi là một đặc trưng cơ bản của hoạt động tư duy. Có đặc trưng này là bởi con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà thường biểu hiện hoạt động nhận thức ấy một cách gián tiếp. Tính gián tiếp đó được thể hiện ở việc con người dùng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con ngưòi sử dụng các kết quả nhận thức (quy tắc, công thức, quy luật, khái niệm ) vào quá trình tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát ) để nhận thức được sự vật, hiện tượng. Điều đó có thể được thể hiện qua hoạt đông như: Khi muốn giải một bài tập hóa học thì ta cần phải biết yêu càu cũng như nhiệm vụ của bài, từ đó, ta dùng các công thức, quy tắc, phương trình để giải bài tập đó. Việc sử dụng các công thức, quy tắc .chính là cách con người dùng ngôn ngữ để tư duy. Tính gián tiếp của tư duy còn được thể hiện ở chỗ, ừong quá trình tư duy con người đã sử dụng những công cụ, phương tiện như: đồng hồ, nhiệt kế, máy móc .để nhận thức những đối tượng mà ta không thể trực tiếp tri giác. Ví dụ như khi ta kiểm tra cường độ dòng điện thì ta dùng ampe kế, kiểm tra độ sôi của nước thì ta dùng nhiệt kế hay khi ta muốn kiểm tra độ pH, độ ẩm của đất thì ta càn phải dùng máy móc Như vậy, nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người được mở rộng không giới hạn những khả năng nhận thức, con người không chỉ phản 13 ánh được những gì đang xảy ra ở hiện tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai. 1.4.30. Một đặc trưng nữa của tư duy là tỉnh trừu tượng và khái quát hóa. Khác vói nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự yật hiện tượng một cách cụ thể và riêng lẻ mà trên cơ sở đó khái quát những sự vật hiện tượng có những thuộc tính bản chất chung thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Nói cách khác, tư duy mang tính trừu tượng và khái quát. Ví dụ như khi ta nói tới khái niệm “sách” thì ta không nói về một quyển sách cụ thể nào mà là sách nói chung. 1.4.31. Cuối cùng, nói tới tư duy ta thấy nó có mối quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tư duy thường bắt đàu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh “tình huống có vấn đề”. Nói cách khác, nhận thức cảm tính là cơ sở, là một bước để con người tư duy. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực tiếp giữa tư duy với hiện thực, là chất liệu của những khái quát hiện thực theo nhóm, lớp, phạm trù mang tính quy luật trong quá trình tư duy. Ngược lại, tư duy và những kết quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ và chi phối khả năng phản ánh của nhận thức cảm tính: làm cho khả năng của con người mang tính lựa chọn, nhạy bén hơn; làm cho tri giác của con ngưòi mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa. Chính vì vậy, Ăngghen đánh giá: “Nhập vào vói con mắt của chúng ta chẳng những có cảm giác khác mà còn có cả hoạt động tư duy nữa. Nói theo một cách khác, nhận thức cảm tính phản ánh những thuộc tính bề ngoài, những mối quan hệ có tính không gian và thời gian của sự vật hiện tượng còn tư duy phản ánh thuộc tính, bản chất bên trong, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật hiện tượng mà trước đó chúng ta chưa biết”. 1.4.32. Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó xảy ra trong hoạt động nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn.Tư duy nảy sinh khi con người nhận thức được tình huống và muốn biểu đạt tình huống đó. Tức là khi đó con người đã nhận thức được nhiệm vụ của tư duy. Khi xác định 14 được nhiệm vụ cần giải quyết chủ thể tư duy huy động các tri thức, kinh nghiệm liên quan để giải quyết vấn đề đó. Trong quá trình đó tư duy của con ngưòi luôn vận động và ngày càng sâu hơn. Cũng bỏi vậy, trong quá trình giáo dục, GV cần chú ý tới việc phát triển tư duy cho HS. Vì nếu không có khả năng tư duy thì không thể học tập, không thể hiểu biết, không thể cải tạo được tự nhiên xã hội và rèn luyện bản thân. Do đó, con ngưòi càn chú trọng đến việc phát triển tư duy, và muốn phát triển tư duy chúng ta cần: 1.4.33. Phải đặt cá nhân HS vào tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực của bản thân, độc lập sáng tạo khi giải quyết tình huống có vấn đề. 1.4.34. Phải rèn luyện năng lực học tập, nâng cao nhận thức để phát triển khả năng tư duy tốt, chính xác. 1.4.35. Phải tăng cường khả năng trừu tượng khái quát. 1.4.36. Phải thường xuyên quan sát tìm hiểu thực tế, rèn luyện cảm giác, tính nhạy cảm, năng lực trí nhớ, nhằm nâng cao nhận thức cảm tính để sau đó rút ra nhận thức một cách lý tính, có khoa học. 1.4.37. Phải trau dồi vốn ngôn ngữ vì ngôn ngữ là cái vỏ thể hiện tư duy và thông qua đó mới biểu đạt được tư duy của bản thân cũng như lĩnh hội được tư duy của người khác. 1.1.2. Đặc điểm tư duy của học sinh THPT 1.4.38. Do cấu trúc não bộ phức tạp và chức năng của não phát triển, do sự phát triển của quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập mà hoạt động tư duy của HS THPT phát triển mạnh. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo hơn. Năng lực phân tích, tổng họp, so sánh trừu tượng hóa phát triển cao giúp các em có thể lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Tư duy của các em nhất quán hơn, chặt chẽ hơn và có căn cứ hơn.Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Các em có khả năng đánh giá và tự đánh giá nhiều mối quan hệ, những sự vật hiện tượng xung quanh theo những thang giá tri đã được xác lập. Các em thích khái quát, 15 thích tìm hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu. Tư duy của các em nhất quán chặt chẽ và có căn cứ hơn, có sử dụng vật liệu là những khái niệm khoa học, tri thức dưới dạng thuật ngữ, mệnh đề để tư duy thoát ly với vật chất. Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc hơn. Tuy nhiên, ở lứa tuổi “nổi loạn” nhiều em còn ham chơi chưa tích cực tư duy, chưa tìm ra phương pháp học tập khoa học hiệu quả nên dẫn đến tình trạng chán học. Nhiều em chưa phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân còn kết luận vội vàng theo cảm tính .Vì vậy, đòi hỏi trong quá trình học tập GV cần hướng dẫn giúp đỡ HS rèn luyện tư duy một cách tích cực, độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Đồng thời, GV phải tìm ra những phương pháp, phương tiện dạy học tích cực nhằm mang lại những hiệu quả tích cực, giúp các em có những hứng thú học tập để các em có thể đạt hiệu quả học tập cao.Với nhận thức trên, chúng tôi cho rằng việc sử dụng SĐTD trong dạy học sẽ mang lại hiệu quả lọi ích thiết thực cho HS ở lứa tuổi này. 1.2. SĐTD và ý nghĩa của việc sử dụng SĐTD trong quá trình giáo dục 1.2.1. Giới thiệu chung về SĐTD 1.4.39.Khi đánh giá về các hoạt động trong đời sống của con người, nhiều nhà tâm lý học đã đề cao vai trò của trí nhớ. Trí nhớ đóng vai ừò quan ừọng trong 1.4.40. mọi hoạt động của con người. Con người không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì sẽ không thích nghi được với môi trường xung quanh, không thể thực hiện bất kì hoạt động nào và nhân cách cũng không thể hình thành. Đe có trí nhớ tốt, con người bắt buộc phải rèn luyện. Và một trong những cách ghi nhớ nhanh đầy đủ và sáng tạo đó là sử dụng SĐTD - công cụ vạn năng cho bộ não. 16 1.4.41.Tony Buzan - cha đẻ của SĐTD là một trong những người đi sâu nghiên cứu để tìm ra hoạt động của bộ não. Ông nhận định: Bộ não người không tư duy theo lối trình tự và tuần tự mà theo cách lan tỏa như mọi hình dạng tự nhiên hệ tuần hoàn, hệ thần kinh trong cơ thể con người, các nhánh của thân cây và những đường gân trên chiếc lá. Đây chính là cách tư duy của não.Để tư duy hiệu quả, não cần có một công cụ có khả năng phản ánh dòng tư duy tự nhiên ấy- SĐTD. Nói đến SĐTD ( bản đồ tư duy, lược đồ tư duy), người ta thường nói tới một phương tiện kỹ thuật được tạo ra trên cơ sở của hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Theo đó, có thể khẳng định: SĐTD là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sẳc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ỷ tưởng. Nhờ sự kết nổi giữa các nhánh, các ỷ tưởng được liên kết với nhau khiến SĐTD có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi rộng. Tính hấp dẫn của hình ảnh, âm thanh gây ra những kích thích rất mạnh mẽ lên hệ thống rìa của não giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền và tạo ra những điều kiện thuận lợi để vỏ não phân tích, xử lí, rút ra kết luận hoặc xây dựng mô hình về đổi tượng nghiên cứu. 1.4.42.về đặc trung, có thể nhận thấy, SĐTD là một sơ đồ mở, việc thiết kế SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người nên không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí hay bản đồ lịch sử. Người sử dụng có thể thêm hoặc bớt các nhánh tùy ý, mỗi ngưòi có thể vẽ một kiểu khác nhau, sử dụng hình ảnh, màu sắc, ngôn ngữ diễn đạt khác nhau. Có thể cùng một chủ đề, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể “thể hiện” SĐTD theo cách riêng của mình, do đó việc sử dụng SĐTD sẽ phát huy tối đa năng lực sáng tạo của mỗi người. Cũng bởi thế, nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh đây chính là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp vói cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn 17 cho trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Vì vậy, GV có thể vận dụng để hỗ trợ dạy học các dạng bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập, củng cố,hệ thống hóa kiến thức cho người học sau mỗi bài/chương/phần/chuyên đề/học kì và giúp cho cán bộ quản lý lập kế hoạch công tác hiệu quả. 1.2.2 .Cấu tạo và phân loại 1.4.43. Theo Tony Buzan thì: SĐTD là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc hình ảnh để mở rộng và đào sâu ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển thành các nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với ý trung tâm. Các nhánh chính lại được phân thành các nhánh nhỏ nhằm nghiên cứu chủ đề ở mức độ sâu hơn. Những nhánh nhỏ này lại được tiếp tục phân thành nhiều nhánh nhỏ hơn, nhằm nghiên cứu vấn đề ở mức độ sâu hơn nữa.Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng cũng có sự liên kết dựa trên mối liên hệ của bản thân các ý, điều này khiến bản đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng mà một bản liệt kê các ý tưởng thông thường không thể làm được. Cách thức xây dựng một bản đồ tư duy khá đơn giản thông qua 5 bước: 1.4.44. Bước 1: Xác định từ khóa - đây là những từ quan trọng tập trung chủ đề một cách cô đọng nhất nên phải ngắn gọn, súc tích. 18 1.4.45. Bước 2: Vẽ chủ đề trung tâm trên một mảnh giấy (nằm ngang). Chủ đề trung tâm có thể là một hình ảnh, từ, cụm từ, kí hiệu, câu nói thể hiện nội dung chủ đề. 1.4.46. Bước 3: Vẽ thêm các nhánh cấp 1 tỏa ra từ chủ đề trung tâm. Đây là các ý chính làm rõ chủ đề. Đây là những nhánh của SĐTD chúng sẽ giúp bạn liên kết các thông tin lại vói nhau. Khi vẽ vạch liên kết nên vẽ đường cong hơn là đường thẳng, màu sắc nổi bật vì chúng hấp dẫn hơn với mắt và dễ ghi nhớ hơn đối với não. 1.4.47. Bước 4: Vẽ thêm các nhánh cấp 2, cấp 3 để thể hiện rõ hơn nội dung của các nhánh trước. Các nhánh phụ sẽ vẽ bằng nét nhỏ hơn để dễ phân biệt với các nhánh chính. Có thể chú thích các từ ngữ cần thiết hoặc điền số thứ tự vào các nhánh nếu bạn muốn sắp xếp theo thứ tự quan trọng hoặc thứ tự các nhánh phải xem nếu thông tin yêu càu phải theo tuần tự. Các nhánh tạo thành một cấu trúc các nút liên hệ chặt chẽ với nhau. 1.4.48. Bước 5: Hoàn thiện SĐTD. Ở bước này, người viết có thể thêm các hình ảnh giúp cho các ý quan trọng thêm nổi bật, thêm sức hấp dẫn cho SĐTD cũng như giúp chúng ta dễ ghi nhớ hơn. 1.4.49. Ỷ con 1 1.4.50. Ý con 1 Ý con 2 Ý con3 - y °hính 2 X Ý con 2 1.4.51. Ỹ con 3 1.4.52. [Hình 1] 1.4.53. Như vậy, khi sử dụng SĐTD ta thấy đối tượng chính được quan tâm, xác định rõ ràng và được kết tinh thành một hình ảnh trung tâm và từ hình ảnh I ! Hình vẽ (từ khóa) 19 1.4.54.trung tâm, những chủ đề chính của đối tượng được tỏa ra các nhánh, ý càng quan trọng thì nằm ở vị trí càng gần với ý chính. Từ đó, ta có thể dễ dàng nắm được nội dung một cách rõ ràng. Có nhiều cách để phân loại SĐTD nhưng khi tùy thuộc vào mức độ tóm lược kiến thức thì SĐTD có thể được chia thành 3 loại chính sau: 1.4.55. SĐTD theo đề cương (SĐTD tổng quát) là loại SĐTD này mang lại một cái nhìn tổng quát về toàn bộ môn học. Lập SĐTD theo đề cương sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về số lượng kiến thức của mỗi môn học, từ đó ta có thể xác định được số lượng kiến thức phải chuẩn bị cho kì thi. 1.4.56. SĐTD theo chương là loại SĐTD có thể cụ thể hóa những kiến thức mà ta phải học trong từng chương. Chúng ta có thể lập SĐTD cho từng chương ừong chương trình.Đối với các chương có lượng kiến thức tò 10 - 12 trang thì ta có thể thâu tóm lượng kiến thức đó trong một SĐTD. Còn đối vói những chương có lượng kiến thức dài từ 20 trang trở lên thì ta cần lập SĐTD trên nhiều trang giấy. Và một điều lưu ý là khi chúng ta lập SĐTD theo chương, người lập không nên chỉ giữ lại các ý chính mà cần bổ sung thêm những chi tiết hỗ trợ quan trọng khác, đôi khi bạn có thể kèm theo các bảng dữ liệu, các đồ thị hay các loại biểu đồ nếu càn thiết. 1.4.57. Cuối cùng là SĐTD theo đoạn văn. Vói loại sơ đồ này càn lưu ý, có thể vẽ SĐTD cho từng đoạn văn nhỏ trong SGK để tóm tắt nội dung chính của đoạn văn. SĐTD theo đoạn văn sẽ giúp chúng ta tiết kiệm thời gian khi ôn tập, học bài vì khi nhìn vào SĐTD chúng ta có thể nắm được những thông tin cần thiết mà không cần đọc lại đoạn văn đó. 1.4.58. Dựa vào cấu tạo và bản chất của SĐTD, chúng ta nhận thấy đây là phương tiện khá đơn giản, hiện đại nhưng có nhiều ưu điểm vượt trội như: logic, mạch lạc, rõ ràng; trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ do nó được thể hiện bằng màu sắc; ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn; có thể thêm kiến thức dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào sơ đồ; kích thích hứng thú quan sát và phân tích của 20 con người; phát huy sự sáng tạo của con người, không dập khuôn máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ; hệ thống hóa kiến thức đầy đủ và tiết kiệm thời gian YÌ nó chỉ sử dụng từ khóa. 1.2.3. Ỷ nghĩa của việc sử dụng SĐTD trong quá trình giáo dục 1.4.59. Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một phương thức GV sử dụng để nâng cao hiệu quả học tập mà còn là điều kiện để hiện thực hóa mục tiêu dạy học. Trên thực tế, với các phương pháp học cũ thì HS thụ động ttong quá trình học ttên lớp, không phát huy được tính năng động, sáng tạo cũng như không phát huy được tinh thần tự giác, hứng thú khi học ở nhà. Vì các em nắm kiến thức một cách rời rạc không có sự liên kết logic vói nhau nên dẫn đến tình trạng học trước quên sau, không phát huy được các năng lực cần thiết. Do vậy, việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy - học là điều cần thiết, sẽ giúp các em có một cách học tốt, phát huy được tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. SĐTD giúp ta tư duy nhiều chiều. Đó là một công cụ giúp học tập hiệu quả thông qua việc vận dụng não phải và não trái giúp người học tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu bài kĩ hơn và nhớ được nhiều chi tiết hơn. Từ đó, ta thấy sử dụng SĐTD trong việc dạy học sẽ mang lại nhiều lọi ích thiết thực như giúp: nắm kiến thức một cách tổng quát mà logic mạch lạc, tiết kiệm thời gian công sức, ghi nhớ nhanh, lâu và sâu kiến thức hơn, kích thích óc sáng tạo cũng như khơi dậy khiếu hội họa Đối vói việc dạy học Tiếng Việt thì việc sử dụng SĐTD sẽ giúp HS chiếm lĩnh bài học một cách tổng thể.GV sẽ hướng dẫn các em đi từ kiến thức tổng quát của bài - trọng tâm bài học và sẽ là trung tâm của SĐTD. Từ đó, sẽ giúp các em tìm ra những nội dung kiến thức xoay quanh chủ đề đó và phát triển thành các ý (các nhánh của sơ đồ). Khi nhìn vào sơ đồ, HS có thể nắm được nội dung bài học đồng thời xác định được đâu là ý chính, đâu là ý phụ một cách rõ ràng và từ đó lên kế hoạch học tập hiệu quả. 21 1.3. Những đặc trưng cơ bản của PCNNBC 1.3.1. Giới thiệu chung về PCNNBC 1.4.60.Trong giao tiếp, dù ở mức tự giác hay không tự giác, người sử dụng đều phải tuân theo những quy tắc riêng về cách sử dụng ngôn ngữ. Gắn với mục đích giao tiếp và phạm vi giao tiếp khác nhau, ngưòi ta dần tạo ra những đặc trưng về phương tiện ngôn ngữ. Khi xã hội phát triển, việc nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ sao cho hiệu quả trở thành một khoa học và khoa học về phong cách ngôn ngữ ra đời. Vậy phong cách ngôn ngữ là toàn bộ những đặc điểm về cách thức diễn đạt tạo thành kiểu diễn đạt ttong mỗi loại văn bản nhất định. Các kiểu phong cách ngôn ngữ cơ bản như: phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ báo chí, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Trong đó, PCNNBC là một trong những chức năng phong cách ngôn ngữ cơ bản, nó được sử dụng khá phổ biến trong đòi sống, xã hội và có vai trò thiết yếu trong việc giúp con ngưòi bày tỏ quan điểm, thái độ của mình trước những sự kiện xảy ra ừong đòi sống. Để tìm hiểu về PCNNBC, chúng ta cùng xét ngữ liệu sau: 1.4.61.“NDĐT - Sáng 20-4, Đại sứ quán nước CHXHCN Việt Nam tại CHDCND Lào đã tổ chức lễ trao tặng Danh hiệu “Công dân danh dự Thủ đô Hà Nội” cho đồng chỉ Phim-ma-xỏn Lương-khăm-ma, ủy viên T.Ư Đảng NDCMLào, Bỉ thư Tỉnh uỷ, Tỉnh trưởng tỉnh Luông Nậm Thà.” 1.4.62. (Theo Báo Nhân dân, ngày 20/4/2015) 1.4.63.Ngữ liệu này cung cấp cho chúng ta thông tin được cập nhật trong đời sống xã hội hàng ngày. Nó phản ánh một sự kiện quan trọng trong đời sống xã hội, được nhân dân bấy giờ quan tâm. Đó là việc đồng chí Phim- ma- xỏn Lương- Khăm- ma được công nhận là “Công dân danh dự thủ đô”. Ngữ liệu có thời gian và sự kiện cụ thể, sự kiện chính xác nhằm cung cấp thông tin mới cho người đọc.Từ ngữ liệu trên chúng ta có thể hiểu: “Ngôn ngữ báo chỉ là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tể, phản ánh chính kiến của 22 tờ báo và dư luận quần chúng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội”. Qua đó, ta thấy ngôn ngữ báo chí không chỉ có chức năng thông tin mà nó còn có chức năng tác động. Nó vừa giúp người đọc hiểu được nội dung thông tin muốn nói tới đồng thời nó còn tác động vào nhu cầu, nguyện vọng, thái độ của người đọc. Tuy nhiên, không phải mọi bài đăng trên báo đều thuộc ngôn ngữ báo chí, chỉ những bài nào mang đặc trưng cơ bản của PCNNBC mới thuộc ngôn ngữ báo chí như: bản tin, phóng sự, phỏng vấn, thư bạn đọc, quảng cáo 1.4.64.Ngôn ngữ báo chí tồn tại ở cả dạng nói và dạng viết. Dạng nói là những bài viết, những mẩu tin trên báo và tờ in, những quảng cáo trên giấy dán nơi đông người Dạng nói là những mẩu tin hàng ngày, những mục thông tin quảng cáo ừên đài phát thanh, đài truyền hình Từ đó, ta có thể hiểu: PCNNBC là kiểu diễn đạt dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông đại chủng báo ỉn, đài phát thanh, đài truyền hình, internet như tin tức, phóng sự, bình luận, tiểu phẩm, diễn đàn, thông tin quảng cáo Nói một cách khác: PCNNBC - công luận là khuôn mẫu thích họp để xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai trò của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo chí, công luận. Nói cụ thể hơn đó là vai trò nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng cáo .tất cả những ai tham gia vào hoạt động thông tin của xã hội về tất cả các vấn đề thời sự. Báo chí cung cấp thông tin cho chúng ta hàng ngày giúp cho cuộc sống của con người phát triển văn minh han. Mọi nhu cầu và nguyện vọng của con người đều phản ánh nhu cầu về thông tin. 1.4.65.Ngôn ngữ báo chí không phải là một vấn đề mới, nó đã được đào sâu nghiên cứu theo từng góc cạnh, từng thời kì phát triển. Nhưng trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay thì đây lại là một vấn đề cần quan tâm của toàn xã hội. tiếng Việt đang dần bị ăn mòn bởi thứ ngôn ngữ lai căng, thiếu trong sáng của một bộ phận giới ừẻ. Do vậy, báo chí phải như một người dẫn đường trong công cuộc bảo tồn và phát triển tiếng Việt ngày càng giàu đẹp. 1.3.2 Những đặc trưng cơ bản của PCNNBC 23 1.4.66.Đe đảm bảo các chức năng thông tin, tuyên truyền .PCNNBC cần phải mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản: tính thông tin thời sự; tính ngắn gọn; tính sinh động, hấp dẫn. 1.3.2.1. Tỉnh thông tin thời sự 1.4.67.Ngôn ngữ có tính thông tin, thời sự là ngôn ngữ cung cấp những tin tức nóng hổi tùng ngày, đòi hỏi phải chính xác về thời gian, địa điểm, nhân vật, sự kiện 1.4.68.Ví dụ: 1.4.69.03/11/2010 05:59 (GMT+7) 1.4.70.Chiều qua, ngày 2/11 đập chứa nước ở Ninh Thuận bị vỡ. Nước lũ tràn tự do khiến cho một sổ người chết và mất tích tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa tăng thêm. Người dân các tình Nam Trung Bộ vẫn đang vẫy vùng trong bão lũ. Các hồ chứa nước đang tràn tự do. 1.4.71.Theo báo cáo sơ bộ, hiện Khánh Hòa có 5 người chết,l người mất tích. Ninh Thuận có 3 người chết và mất tích và Phú Yên có 2 người chết vì bão lũ. 1.4.72. (Tin tức online) 1.4.73.Ngữ liệu trên đã cung cấp cho chúng ta thông tin nóng hổi về một sự việc vừa xảy ra được mọi người đặc biệt quan tâm. Đó là việc vỡ đập ở Nam Trung Bộ. Với sự kiện đó, ngữ liệu đã giới thiệu một cách khái quát về thời gian, địa điểm, những hệ lụy mà sự việc đó dẫn tới Và qua chuỗi các thông tin được trình bày ngắn gọn đó độc giả có thể hiểu được những điều đang xảy ra trong thực tế. Như vậy, có thể nói các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện mà còn thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá. Sự bình giá có thể tích cực, có thể tiêu cực, song ừong bất kì tình huống nào nó cũng được biểu đạt thông qua ngôn từ. 1.3.2.2. Tính ngắn gọn 24 1.4.74.Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông tin ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Trên thực tế, để truyền tải được các thông tin thì ngôn ngữ báo chí phải thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng mà các phương tiện thông tin đại chúng cũng có giới hạn trong khi lượng thông tin cần thông báo lại vô cùng phong phú, đa dạng. Trên báo thì tính từng dòng, từng chữ, ừên đài phát thanh, đài truyền hình thì tính từng phút từng giây. Và người độc giả thì luôn muốn thu được nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian. Hơn nữa, nếu viết quá dài sẽ dễ mắc nhiều dạng lỗi khác nhau, nhất là các lỗi về sử dụng từ. Vì vậy, báo chí luôn phải diễn đạt cho thật ngắn gọn mà vẫn chứa đựng được nhiều thông tin nhất. 1.4.75.Tính ngắn gọn, súc tích của ngôn ngữ báo chí được biểu hiện ở đặc điểm: dồn nén lượng thông tin; tập trung làm nổi bật sự kiện cốt lõi; sức biểu đạt cao nhất; đáp ứng những hạn định về dung lượng, thời lượng và phù hợp với loại hình, loại thể. Văn báo chí là lối văn ngắn gọn với lượng thông tin cao. Tiêu biểu cho sự ngắn gọn là bản tin, đặc biệt là loại tin vắn, tin nhanh, quảng cáo .Ở đó có khi chỉ cần dùng một câu mà người đọc có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết. Ta có thể nhận thấy đặc trưng này ừong ngữ liệu dưới đây: 1.4.76.(LĐ) - Ngày 1.11, tại Hà Nội. 1.4.77.Nhà xuất bản (NXB) Lao động tổ chức ki niệm 65 năm thành lập (1.11.1945-1.11.2010). 1.4.78. (Trích Báo Nhân dân, ngày 1/11/2010) 1.4.79.Chỉ với một câu như trên nhưng bản tin đã nêu lên thông tin một cách chính xác và đày đủ về việc Nhà xuất bản Lao động tổ chức kỉ niệm 65 năm thành lập, với thời gian là ngày 1/11 và có địa điểm cụ thể là tại Hà Nội. 1.3.2.3. Tính sinh động, hấp dẫn 1.4.80.Không phải thể loại nào cũng viết sinh động, hấp dẫn nhưng muốn thu hút sự chú ý của người đọc, ngôn ngữ báo chí cần kích thích sự tò mò hiểu 25 |