Xu hướng phổ biến trong chính sách phát triển công nghiệp của các nước Đông Nam á hiện nay

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

06:30' - 23/02/2021

BNEWS Khi Đông Nam Á thoát ra khỏi cái bóng của đại dịch COVID-19, khu vực này có cơ hội thực sự để biến những sự chuyển đổi này thành lợi thế.

Hiện nay, có ba xu hướng chuyển đổi lớn đang tác động đến thế giới, đó là sự chuyển dịch sang châu Á, việc đẩy nhanh kỹ thuật số và nguy cơ gia tăng của tình trạng biến đổi khí hậu. Tất cả những yếu tố này đều đang thực sự tác động đến khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, mẫu số chung cho mọi vấn đề trong cuộc khủng hoảng COVID-19 là sự cần thiết phải nhanh chóng thích ứng và duy trì tính năng động. Khi Đông Nam Á thoát ra khỏi cái bóng của đại dịch COVID-19, khu vực này có cơ hội thực sự để biến những sự chuyển đổi này thành lợi thế. Tuy nhiên, để thành công, các quốc đòi hỏi phải có sức chống chịu, sự tái kết nối và hình dung trên quy mô toàn khu vực. Dưới đây là những lĩnh vực mà khu vực Đông Nam Á cần quan tâm chặt chẽ trong năm nay và xa hơn nữa.

Cơ hội “xoay trục” sang khu vực Đông Nam Á


Châu Á là động cơ tăng trưởng của thế giới, và khu vực Đông Nam Á nằm ở vị trí trung tâm của châu lục này trong nhiều năm. Tuy nhiên, xét về tăng trưởng được thúc đẩy bởi đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và cơ sở hạ tầng, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19 nặng nề hơn so với các khu vực còn lại của châu Á.Do ảnh hưởng của COVID-19, Đông Nam Á - vốn là một trung tâm chế tạo sản xuất - sẽ trở nên ít phụ thuộc hơn vào các thị trường bên ngoài đối với tiêu dùng và đầu tư. Các thị trường tiêu dùng nội khu vực mới mà các nhà sản xuất đã phát triển khi nhu cầu ở châu Âu và Bắc Mỹ giảm sẽ vẫn được duy trì.Điều không may là sự bất trắc đang diễn ra đồng nghĩa với việc khó thiết lập các kế hoạch dài hạn. Nhưng các biện pháp cải cách chính sách của các chính phủ có thể góp phần “bôi trơn bánh xe” bằng việc đơn giản hóa các rào cản phi thuế quan.Bên cạnh đó, việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Bởi RCEP giúp loại bỏ nhiều rào cản thuế quan và phi thuế quan, đồng thời mở cửa khu vực cho nhiều hoạt động thương mại hơn.Khu vực này cũng cần thu hút nhiều hơn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Điều này có thể được thực hiện bằng việc sửa đổi những danh mục đầu tư tiêu cực, đưa ra khuyến khích về thuế đối với một số lĩnh vực và sửa đổi để đẩy nhanh tiến trình phê duyệt đầu tư.

Xu hướng đầu tư vào công nghệ của doanh nghiệp

Công nghệ đã góp phần “giải cứu” các doanh nghiệp trong năm 2020 vừa qua. Công nghệ tạo điều kiện duy trì tính liên tục, xác định lại kết nối giữa khách hàng và nhà cung cấp, và sẽ định hình tương lai của các doanh nghiệp có khả năng phục hồi.Năm 2020, các doanh nghiệp đã “xoay trục” để đối phó với tình trạng phong tỏa. Họ đã triển khai các nền tảng mua bán trực tuyến và giao hàng nhanh hơn, theo dõi sản phẩm trực tuyến. Cuối cùng, các công ty đã sử dụng các kênh kỹ thuật số để thực hiện thanh toán trực tuyến, sử dụng các bảng điều khiển kỹ thuật số để quản lý thanh khoản và đưa các nhà cung cấp vào các nền tảng số.Tuy nhiên, nhiều thay đổi đã được đưa ra một cách vội vàng. Trong tương lai, các doanh nghiệp với quy mô khác nhau sẽ cần đầu tư vào việc phát triển năng lực kỹ thuật số của họ hơn nữa để đảm bảo khả năng đáp ứng với dân số thương mại điện tử ngày càng tăng trong tương lai. Theo báo cáo của Google, Bain và Temasek, chỉ riêng năm 2020, 40 triệu người ở Đông Nam Á lần đầu tiên đã vào mạng. Hiện nay có khoảng 400 triệu người dùng Internet trên toàn khu vực.Trong khi đó, khảo sát của ngân hàng HSBC cho biết, 80% doanh nghiệp ASEAN có kế hoạch duy trì hoặc gia tăng đầu tư vào đổi mới sáng tạo. Điều có ý nghĩa then chốt là những bản kế hoạch này cần phải được triển khai trên thực tế.

Chúng ta đã chứng kiến công nghệ cách mạng hóa các chuỗi cung ứng như thế nào. Tuy nhiên, chuyển đổi kinh doanh sẽ không chỉ được thúc đẩy bởi một mình công nghệ, mà cần kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI), các công nghệ phân tích, mạng không dây thế hệ mới 5G…

Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể một mình làm được việc này. Họ cần sự hợp tác đầy đủ của tất cả các cơ quan có thẩm quyền, với việc thực hiện đầy đủ các khuôn khổ như Kế hoạch hành động khuôn khổ hợp nhất kỹ thuật số ASEAN và Khuôn khổ quản trị dữ liệu số ASEAN.
Động lực để thúc đẩy sự thịnh vượngCông nghệ có thể tạo điều kiện và làm chất xúc tác cho tăng trưởng kinh tế, nhưng tạo ra nguy cơ loại bỏ những doanh nghiệp thiếu nguồn lực và sự đào tạo cần thiết để nắm bắt những cơ hội này. Việc nâng cao sự hiểu biết về kỹ thuật số cho lực lượng lao động khu vực sẽ là điều cấp thiết.Có ba lợi ích rõ ràng, thứ nhất, một bộ phận người dân có trình độ học vấn và được trang bị những kỹ năng kỹ thuật số mới nhất sẽ có năng lực thích ứng khi các lĩnh vực kỹ thuật số phát triển. Thứ hai, công nghệ tài chính sẽ giúp nhiều phân khúc trong xã hội hơn trở nên giàu có thông qua đầu tư. Và cuối cùng, các nền tảng số cho phép các khách hàng khám phá một loạt giải pháp đầu tư hiệu quả hơn.Khi có kinh nghiệm, các nhà đầu tư cá nhân học cách sử dụng vốn đầu tư, bảo hộ có mục tiêu và lập kế hoạch phù hợp. Đối với các nhà đầu tư sành sỏi hơn, công nghệ sẽ giúp họ tìm kiếm được những giải pháp có chọn lọc hơn. Do đó, cải thiện xã hội bằng việc làm cho công nghệ trở nên gắn kết với nhiều người dân hơn cần phải là ưu tiên của các chính phủ ASEAN trong năm nay và xa hơn nữa.

Xây dựng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu

Dịch bệnh đã cảnh báo mọi người về một mối đe dọa khác đang dần hiện ra, đó là rủi ro ngày càng tăng của tình trạng biến đổi khí hậu đối với các cộng đồng và sinh kế của người dân.ASEAN là một trong những khu vực dễ bị ảnh hưởng nhất trước rủi ro của tình trạng biến đổi khí hậu, và nếu vấn đề này không được các quốc gia giải quyết đến năm 2030, thì khu vực sẽ bị sụt giảm 11% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2100. Do đó, cần nhanh chóng hành động trên tất cả các lĩnh vực như năng lượng, vận tải, xây dựng đô thị, công nghiệp và đất đai.Thập kỷ tới có ý nghĩa then chốt. Khi tái thiết các nền kinh tế, các nước cần nhớ rằng sự phục hồi thiếu bền vững sẽ không phải là sự phục hồi thực sự. Trong khi đầu tư xanh đã đạt được những bước tiến lớn ở ASEAN, vẫn có một khoảng trống khi đề cập đến việc sử dụng nguồn tài chính bền vững chuyên biệt của các doanh nghiệp và xã hội. Một giải pháp để giải quyết sự thiếu kết nối này có thể là việc các chính phủ Đông Nam Á gắn các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trong tương lai của họ với các nguyên tắc xanh và bền vững. Điều này sẽ thu hút nhiều đầu tư tư nhân hơn từ khắp nơi trên thế giới vào các dự án này.Sự phát triển thịnh vượng và tăng trưởng mà khu vực Đông Nam Á có được trong hai thập kỷ qua đã được xây dựng trên tinh thần mở cửa và kết nối, và các quốc gia cần quay trở lại những gốc rễ này. Hậu quả của dịch bệnh cũng như của tình trạng biến đổi khí hậu, những tiến bộ về công nghệ đem lại cả rủi ro lẫn cơ hội. Đây cũng là dịp để các quốc gia thiết lập lại mục tiêu và tham vọng của họ, cũng như xây dựng khả năng phục hồi và hình dung lại cách thức làm việc trong tương lai. Để có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, kết nối hơn và bao trùm hơn, khu vực Đông Nam Á cần cùng nhau hành động trong những thời khắc chuyển đổi này./.

Nền kinh tế Đông Nam Á thời gian qua phải chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19, kinh tế Trung Quốc giảm tốc, xung đột Nga - Ukraine hay xu hướng thắt chặt tiền tệ toàn cầu. Song, nhiều cơ hội mới đang xuất hiện, hứa hẹn khả năng phục hồi kinh tế đầy triển vọng. Dẫu vậy, những cơ hội đó cũng đòi hỏi các quốc gia phải thay đổi chính sách cũng như tăng cường hợp tác quốc tế.

Kinh tế Đông Nam Á đã và đang trải qua những cú sốc nào?

Cú sốc đầu tiên làm nền kinh tế thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng chao đảo trong suốt hai năm là đại dịch Covid-19. Hiện tại, Covid-19 dần được kiểm soát phần nào và các nền kinh tế đang trở lại trạng thái bình thường mới. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, vẫn còn quá sớm để nói đại dịch Covid-19 đã qua đi, cũng như không thể biến mất hoàn toàn. Dịch bệnh vẫn đang tồn tại, đặc biệt là ở Trung Quốc, tác động tới mọi hoạt động kinh tế của khu vực, cũng như toàn cầu.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc giảm tốc chủ yếu do hai yếu tố. Một là chính sách "Zero Covid" - những hạn chế về đi lại và phong tỏa ở một số thành phố gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể, đồng thời khiến khó thực hiện các chính sách kích thích kinh tế. Hai là ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản của nước này ước tính chiếm tới 1/3 GDP. Hiện dư thừa công suất trong lĩnh vực này là rất lớn, vì thế vẫn chưa có giải pháp nào ngay lập tức tháo gỡ. Trung Quốc hội nhập chặt chẽ với khu vực, nên tăng trưởng kinh tế của quốc gia này yếu đi sẽ ảnh hưởng đến Đông Nam Á thông qua nhiều kênh, bởi phần lớn sản lượng của khu vực cuối cùng được tiêu thụ ở Trung Quốc. Trong khi một số mặt hàng xuất khẩu của khu vực trở thành hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang phần còn lại của thế giới, một phần hàng xuất khẩu của khu vực ở những nơi khác cuối cùng lại được tiêu thụ ở Trung Quốc. Xuất khẩu của Đông Nam Á sang các nước thứ ba cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu nguyên liệu đầu vào có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Xu hướng phổ biến trong chính sách phát triển công nghiệp của các nước Đông Nam á hiện nay
Nguồn: Nikkei Asia

Tiếp theo là cuộc xung đột Nga - Ukraine, khiến cho giá hàng hóa và nhiên liệu tăng một cách đột biến, dẫn đến nhiều doanh nghiệp lao đao và thị trường tài chính ngày càng biến động hơn. Nhà kinh tế trưởng về Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) Aaditya Mattoo nhận định, kinh tế thế giới không chỉ phải đối mặt cứ hai cú sốc về đại dịch và xung đột địa chính trị, mà giờ đây còn phải đối phó với trình trạng lạm phát đáng báo động. Do đó, để kiềm chế lạm phát, các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới đang phải thắt chặt các chính sách tài chính và tiền tệ hơn. Những cú sốc này kết hợp lại với nhau đặt ra những thách thức mới cho quá trình phục hồi nửa chừng của Đông Nam Á.

Ông Aaditya Mattoo cho rằng, nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất ở khu vực là Lào, vốn có cả nợ cao và lạm phát cao ngay cả trước khi xảy ra xung đột tại Ukraine. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng chậm lại, cả ở Trung Quốc và toàn cầu cũng sẽ ảnh hưởng đến các nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu nhiều, nhất là Malaysia, Thái Lan và Campuchia. Vì vậy, về cơ bản, suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến các nước phụ thuộc vào xuất khẩu và thắt chặt tài chính sẽ ảnh hưởng đến những nước đang nợ nhiều, đó là những mối nguy hiểm song song.

Cơ hội mở rộng nhưng đầy thách thức

Mặc dù đại dịch Covid-19 khiến nền kinh tế khu vực chịu "tổn thương" nặng nề, nhưng nó cũng đã tạo ra nhiều cơ hội mới. Việc dịch chuyển chuỗi giá trị ra khỏi Trung Quốc đã mang lại lợi ích cho một số nước trong khu vực. Sự thay đổi này xảy ra trước đại dịch do mức lương thực tế của Trung Quốc tăng và dân số già. Trong khi đó, Malaysia cũng tận dụng lợi thế bằng cách thu hút các nhà sản xuất linh kiện điện tử, và một số hoạt động có giá trị cao đang đến với Singapore. Indonesia không được hưởng lợi, chủ yếu là do các chính sách hạn chế thương mại. Cơ hội lớn khác đến từ việc triển khai nhanh hơn các công nghệ trong khu vực. Một số chuyên gia đánh giá, sự gia tăng đáng kể về tự động hóa và số hóa, đang ảnh hưởng đến cả sản xuất và đặc biệt là các dịch vụ như thương mại điện tử và thương mại xuyên biên giới. Tuy nhiên, họ cảnh báo thương mại điện tử cũng là "con dao hai lưỡi" vì các nền tảng thương mại điện tử giảm chi phí thương mại và thông tin, nhưng chúng cũng phóng đại các lợi thế so sánh hiện có.

Bên cạnh đó, do tình trạng tắc nghẽn kinh niên trong chuỗi cung ứng toàn cầu, ngay cả khi nhiều quốc gia khác đã mở cửa trở lại biên giới để nối lại hoạt động kinh doanh, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo cảnh báo tình trạng thiếu các chất bán dẫn quan trọng trên toàn cầu có thể kéo dài ít nhất đến hết năm 2023 và có lẽ còn dài hơn nữa do đứt gãy chuỗi cung ứng. Để tránh những chậm trễ tốn kém trong sản xuất và logistics, ngày càng nhiều công ty sản xuất thiết bị bán dẫn của Mỹ chuyển dịch cơ sở sản xuất và chuyển những khoản đầu tư mới sang Đông Nam Á. Năm 2021, hãng sản xuất chip GlobalFoundries cho biết sẽ đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào một cơ sở sản xuất ở Singapore để đáp ứng nhu cầu gia tăng về chip bán dẫn trên toàn cầu. Trong khi đó, tập đoàn Intel thông báo kế hoạch đầu tư hơn 7 tỷ USD để xây dựng một nhà máy thử nghiệm và đóng gói chip ở Penang, Malaysia. 

Nhà kinh tế trưởng Jajiv Biswas tại S&P Global Market Intelligence đánh giá, Đông Nam Á là một phần quan trọng của chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu, đặc biệt là đối với ngành điện tử. Do sự gián đoạn chuỗi cung ứng và sự chậm trễ nghiêm trọng về thời gian cung cấp đối với các linh kiện then chốt trong ngành điện tử toàn cầu trong suốt thời kỳ dịch bệnh, các công ty điện tử ngày càng đa dạng hóa các chuỗi cung ứng sang khu vực. Các quốc gia Đông Nam Á đang ngày càng trở thành những địa điểm quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu khi các doanh nghiệp chuyển hướng khỏi Trung Quốc sau đại dịch. Những diễn biến nói trên giúp tăng cường vai trò của Đông Nam Á trong chuỗi cung ứng toàn cầu, và đem lại lợi ích cho người dân địa phương, vì chúng đem lại các dòng vốn dồi dào và triển vọng việc làm mới sau 2 năm gián đoạn do dịch bệnh. 

Hơn nữa, chương trình nghị sự về khí hậu đang trên đà phát triển cũng là cơ hội cho khu vực. Việc tăng giá nhiên liệu có thể làm cho các công nghệ xanh trở nên khả thi hơn, song cũng có những trở ngại mà các quốc gia sẽ phải đối mặt. Giá nhiên liệu cao có thể khuyến khích sản xuất nhiều hơn nhiên liệu hóa thạch và hạn chế khả năng của các chính phủ trong việc tăng thuế carbon, vốn cần thiết cho quá trình chuyển đổi xanh. Chính sách lãi suất cao mà các nền kinh tế trong khu vực sẽ buộc phải áp dụng, có thể ngăn cản việc áp dụng các công nghệ xanh có xu hướng thâm dụng vốn và cần các khoản đầu tư trả trước lớn. Tuy nhiên, các tiến bộ về cả khí hậu và thương mại cần sự hợp tác toàn cầu nhiều hơn, bởi vì các quốc gia cần phải hành động cùng nhau. Ví dụ, các công nghệ đối phó với biến đổi khí hậu tập trung ở Mỹ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc, đưa những công nghệ này trở nên phổ biến rộng rãi là hành động quan trọng nhất mà thế giới có thể thực hiện. Và trong thương mại, các quốc gia cần bảo đảm rằng sự cởi mở và công bằng sẽ chiếm ưu thế, nguồn cung cấp khí đốt sẽ không bị cắt... Tuy nhiên, không có gì bảo đảm rằng khả năng hợp tác như vậy sắp diễn ra, do sự hợp tác quốc tế dường như vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thế giới.

Như Ý