Cảm nhận đoạn trong các dòng sông đẹp ở các nước bát ngát tiếng gà

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích đoạn trích: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi…..giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…” (Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của Hoàng Phủ Ngọc Tường). Các bài văn mẫu được Top Tài Liệu biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!

I. Mở bài

– Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường:

+ Là một nhà văn chuyên viết về bút ký, được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là một trong mấy người viết ký hay nhất của văn học đương đại.

+ Ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều. Tất cả được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về lịch sử, địa lý, văn hóa, triết học,.. với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

– Nêu khái quát chung về tác phẩm “Ai đã đạt tên cho dòng sông”:

+ Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút ký xuất sắc in trong tập sách cùng tên.

+ Sáng tác ngay sau chiến thắng 1975 nên vẫn còn dư âm của khí thế chống giặc ngoại xâm và ngợi ca chủ nghĩa anh hùng.

– Khái quát nội dung: Vẻ đẹp con sông Hương dưới góc nhìn địa lý khi chảy ở ngoại ô thành phố Huế. Qua đó tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện rõ nét.

II. Thân bài

* Vị trí đoạn trích: Nằm ở ngay đầu tác phẩm, đây là khi con sông Hương vừa chảy ra khỏi rừng già và đến với sự thơ mộng của cánh đồng Châu Hóa cùng cảnh vật những ngôi làng ngoại ô kinh thành Huế.

1. Vẻ đẹp con sông Hương dưới góc nhìn địa lý khi chảy ở ngoại ô thành phố Huế qua vùng châu thổ êm đềm.

– Hình ảnh liên tưởng: Người gái đẹp đang nằm ngủ mơ màng giữa cách đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức.

+ Người gái đẹp: Người con gái ở độ tuổi trăng trong, nhăn sắc trẻ trung phơi phới sức sống.

+ Nằm ngủ mơ màng: Giấc ngủ êm đềm với một giấc mộng đẹp kéo dài đến mấy thế kỉ.

+ Cánh đồng đầy hoa dại: Cánh đồng được sông Hương bồi đắp trở nên trù phú. Hoa dại là một loại hoa có sức sống mãnh liệt, màu sắc rực rỡ, mang hương thơm của đồng nội.

+ Người tình mong đợi: Chờ đợi càng kéo dài thì hạnh phúc càng lớn lao.

– Hành trình của sông Hương liên tưởng tới hành trình của người gái đẹp đi tìm người tình nhân đích thực của mình. Gọi là người tình đích thực vì người ấy rất xứng đáng, xứng đôi vừa lứa. Hành trình này vô cùng lãng mạn giống như những câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Hành trình sông Hương về với Huế giống như hành trình cuộc tình nhân lý tưởng trong truyện Kiều: Tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc.

– Vẻ đẹp của sông Hương trong hành trình đi tìm người yêu.

+ Sông Hương không ngừng hoàn thiện vẻ đẹp của mình để phô khoe trước người yêu, là để dâng tặng trước người yêu của mình.

+ Hành trình của sông Hương đi qua rất nhiều đoạn chảy nhỏ và được cảnh quan của đôi bờ soi bóng, tô điểm cho nên sông Hương ở mỗi đoạn chảy lại mang những nét đẹp đa dạng, phong phú.

++ Sông Hương tỉnh dậy sau một giấc ngủ kéo dài đến mấy thế kỉ sau một thời gian dài chờ đợi được người tình mong đợi đến đánh thức -> niềm hạnh phúc trang ngập -> Sức sống mạnh mẽ và háo hức đi tìm người yêu. Nhưng hành trình này không dễ dàng, khá là gian truân vượt qua rất nhiều chướng ngại vật (điện hòn 3 Chén; gò vấp, thềm đất bãi) uốn lượn quanh co được tác giả diễn tả qua những hình ảnh rất đẹp. sông hương chuyển dòng liên tục vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, vẽ một cánh cung thật trong ôm lấy chân đồi Thiên Mụ

=> Trong quá trình vất vả để vượt qua chướng ngại vật sông Hương đã vô tình phô khoe những nét đẹp riêng rất ấn tượng.

+ Khi đi trong dư vang của Trường Sơn sông Hương vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi. Sắc nước có màu xanh thẳm rất khác với màu xanh ngọc bích của sông Đà, màu xanh của sông Hương gợi độ sâu, không thuần túy là cái đẹp hình thức mà có cả độ lắng của trải nghiệm.

+ Trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, đồi núi trùng điệp, cao vững chãi như những bức tường thành dang che chở, bao bọc cho sông Hương -> Sông Hương trở nên mềm như tấm lụa -> mặt sông trải rộng, êm đềm -> Con thuyền trên sông giống như những con thoi.

+ Những dãy đồi núi với điểm cao đột ngột đã tạo nên những phản quang nhiều màu sắc cho dòng sông: Sớm mang màu xanh của nền trời in bóng mang theo độ trong của mặt nước. Đến trưa sông Hương lại chuyển màu do phản chiếu màu nắng rực rỡ. Đến chiều mặt nước sông hương lại chuyển sang màu tím. -> Thay đổi theo các thời điểm từng ngày đều tươi sáng, rực rỡ -> Sông Hương là một người con gái rát điệu đà, rất đáng yêu.

+ Sông Hương đi qua những lăng tẩm đồ sộ – nơi yên nghỉ ngàn thu của các vua chúa mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong lòng những lòng sông u tịch. -> Sông Hương trở nên trầm mặc như triết lý, như cổ thi.

+ Sông Hương nhận thấy những dấu hiệu từ xa của thành phố hay chính người tính từ xa. Đây là những dấu hiệu âm thanh: Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà -> Gợi cuộc sống bình yên, yên ả.

=> Sông Hương trở nên bừng sáng, tươi tắn.

2. Tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Làm nên sức hấp dẫn cúa đoạn trích trước hết là nhờ xúc cảm sâu lắng của tác giả in hằn trong từng câu chữ.

– Tính trữ tình được tổng hợp từ vốn hiểu biết sâu rộng về lịch sử, địa lý, văn hóa, văn chương của Huế cùng với đó là tình yêu tha thiết với thành phố Huế thân yêu.

– Tính trữ tình thể hiện thông qua văn phong súc tích, hướng nội, tinh tế, tài hoa.

– Biện pháp nghệ thuật sử dụng rất dày đặc như so sánh, nhân hóa,… gắn với liên tưởng bất ngờ, sáng tạo

-> Mang đến sự thích thú đặc biệt cho người đọc.

III. Kết bài:

Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.

Cảm nhận đoạn trong các dòng sông đẹp ở các nước bát ngát tiếng gà

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,…Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người, đặc biệt là văn hóa Huế: Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút ký hay nhất của nhà văn viết về xứ Huế thơ mộng và con sông Hương xinh đẹp. Trong những dòng văn lai láng chất thơ chất họa về dòng sông ấy, đoạn trích sau là tiêu biểu hơn cả:

“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến […] giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”

Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” viết ở Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài ký có ba phần. Sách giáo khoa trích học phần đầu. Với bút ký này, tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận thật đầy chất thơ về dòng sông Hương theo dòng chảy của nó từ Trường Sơn cho đến khi chảy qua thành phố Huế và xuôi về biển. Đoạn trích dẫn trên đây là phần đầu đoạn trích sách giáo khoa: vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh sông Hương chảy qua cánh đồng Châu Hóa, dưới góc nhìn nhân cách hóa, tác giả ví von sông Hương như một “người gái đẹp”. Câu văn như thảm lụa ngôn từ dệt nên một huyền thoại “ phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Hình ảnh được nhân cách hóa, liên tưởng thú vị tới truyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”. Hai chữ “mơ màng” gợi tả hình ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dòng sông, dòng sông như tỉnh như mơ, như thực như mộng. Hình ảnh cánh đồng hoa dại gợi tả một không gian trong trẻo, thơ mộng nhuốm màu cổ tích. Chỉ một câu văn ngắn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc của Hương giang.

Giấu khuôn mặt mình vào chân núi Kim Phụng, “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức”. Câu văn mềm mại, uyển chuyển biết bao. Sông Hương sau vài thế kỷ ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đã được người tình mong đợi đến đánh thức, nhưng đánh thức rồi người tình không biết đã đi đâu, nên nàng ngơ ngác đi tìm, vô tình cuộc tìm kiếm ấy đã làm cho dòng sông càng trở nên đẹp đẽ. Những từ ngữ như “khúc quanh đột ngột”, “uốn mình”, “đường cong thật mềm” cùng với phép so sánh “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” đã gợi ra hình ảnh dòng sông mềm mại, nữ tính, gợi cảm, quyến rũ. Nét đẹp ấy cũng khiến ta liên tưởng đến nét “ngoằn ngoèo”, hay “áng tóc trữ tình” tuôn dài, tuôn dài của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Càng cho ta thêm một nét cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên bao la của đất nước mà thêm trân quý những vẻ đẹp của non sông đất nước mình.

Không chỉ dừng lại ở đó, men theo thủy trình của dòng sông, men theo đường cong mềm mại, thướt tha ấy của cô gái Hương giang nhà văn còn phát hiện ra: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… mang đến cho người đọc những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng, kiến thức địa lý phong phú của nhà văn. Tác giả sử dụng nhiều động từ chỉ đường nét khiến ta hình dung về dòng chảy trữ tình của con sông thật sống động: “vấp – chuyển hướng – vòng qua – vẽ một hình cung – ôm lấy – xuôi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như một sinh thể sống động và giàu sức sống.

Quan sát ở điểm nhìn gần hơn: “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ “vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn, gian truân; và sắc nước “xanh thẳm” là phần thưởng xứng đáng có được sau hành trình nhọc nhằn ấy. Để khi về đến những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức mạnh. Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hoà. Sắc xanh thẳm của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên bức hoạ đồ mà ca dao người Huế từng ngợi ca: “Đường vô xứ Huế loanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hòa vào sắc núi, sắc đồi và ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố sắc màu lộng lẫy như đóa hoa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Cái sắc màu không trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền:

Đã bốn lần đến Huế

Vẫn lạ như lần đầu

Sông Hương lơ đãng chảy

Nắng tím vướng chân cầu

Đoạn tả sông Hương thay đổi dòng chảy chỉ có bốn câu văn, bốn câu dài miên man với những từ ngữ đẹp đã tạo ra một bức họa sơn thủy tuyệt đẹp. Người đọc không khỏi tấm tắc ngợi ca cái tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi chỉ một cái vẩy bút mà ông đã tạo nên cái chất “thi trung hữu họa” hiếm thấy với bất cứ tác giả nào viết về sông Hương. Chợt nhớ tới nhà phê bình văn học Lê -ô- nít Lê- ô- nốp của nước Nga hùng vĩ với câu nhận định: “Có hai kiểu nhà văn thường gặp, kiểu nhà văn phóng bút tạo nên những hình tượng góc cạnh, thô mộc; có kiểu nhà văn chỉ vẩy nhẹ ngòi bút mà hình tượng nghệ thuật đã sống động, đẹp đẽ hơn cả cảnh thần tiên”. Vậy chắc ở đây Hoàng Phủ Ngọc Tường là kiểu nhà văn thứ hai – một kiểu nhà văn chỉ cần vẩy bút là đã dệt nên thảm lụa ngôn từ mà điểm tô cho hình tượng nghệ thuật.

Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài – nơi yên nghỉ của các triều vua, sông Hương như trầm mặc hẳn đi, bởi nàng đang đi qua một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu: “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”, “vạn niên” gợi không khí cổ kính và cũng như phần nào giải thích cho vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương.

Nhà văn khẳng định: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”. “Trầm mặc” là vẻ đẹp trầm tư, gợi ra cảm giác im lìm, dáng đứng thâm nghiêm sâu lắng, mang nặng nỗi niềm tâm sự, hoài niệm quá khứ. Nét đẹp ấy làm cho đất trời, con người cũng thấy nặng lòng. Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. So sánh với “triết lý”, triết lý là sự trải nghiệm, là chân lý; “Cổ thi” là vẻ đẹp cổ kính, giàu chất thơ, chất họa. Dòng sông như hội tụ đầy đủ dấu ấn của triết học, thi ca, nhạc họa. Đây cũng chính là cái tôi tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Hai chữ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt nước trong trẻo, yên bình, không gợn sóng. Hai chữ “ngân nga” gợi âm thanh ngân vang, luyến láy, như kéo dài ra mênh mang trong cõi vô thường. Từ láy “bát ngát” đặt giữa “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” gợi ra không gian bao la mang vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, lắng đọng như đưa người đọc trôi mênh mang vào một cõi ảo huyền đến nỗi thèm một cái giật mình để dứt ra khỏi cảm giác ấy mà không được, cho đến khi bừng tỉnh bởi tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Trong cảm nhận của TS. Trịnh Thu Tuyết thì: “Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ”.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một bút ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hành văn súc tích, giàu chất thơ. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn trích là cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

Thành công của đoạn trích nói riêng và bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo: Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Sử dụng nhiều phép tu từ như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ… Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. Bút ký có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Giọng văn nhẹ nhàng pha lẫn hoài niệm làm bài ký toát lên nỗi niềm thương nhớ bâng khuâng. Tất cả đã hòa quyện lại dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút tài hoa ấy thăng hoa cùng tác phẩm.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường là bài văn xuôi đặc sắc đầy chất thơ về dòng sông Hương. Với tình yêu say đắm, thiết tha và với vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí,… nhà văn đã cống hiến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về vẻ đẹp của dòng sông xứ Huế mộng mơ, nhất là đoạn chảy ở đồng bằng đến ngoại vi thành phố Huế. Hương Giang vốn đã đẹp ở ngoài nhưng trong những trang viết của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến dòng sông đẹp hơn như một bức họa đồ, nhẹ nhàng êm ái như điệu slow tình cảm, hay dịu dàng cuốn hút như người tình trong mộng. Tất cả những điều đó làm dấy lên trong lòng người đọc nhưng khao khát được đến với sông Hương của xứ Huế thơ mộng. Dòng sông đúng là một công trình nghệ thuật mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.