Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn lớp 10

Chi tiết Chuyên mục: Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX)

- Tích cực: Giữ được quan hệ thân thiện với các nước láng giềng nhất là Trung Quốc

- Hạn chế: Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn thể hiện sự bảo thủ, lạc hậu, không tạo điều kiện cho đất nước giao lưu với các nước và các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới, dẫn đến tụt hậu và trì trệ.

(Nguồn: trang 127 sgk Lịch Sử 10:)

Hướng dẫn trả lời câu hỏi giữa bài

Câu 1: Trang 127 – sgk lịch sử 10

Hãy đánh giá chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn?


Nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao là:

  • Phục tùng nhà Thanh
  • Bắt Lào và chân Lạp thuần phục
  • Đóng cửa với các nước phương Tây

Với chính sách ngoại giao đó, đã mang đến những tích cực và tiêu cực đối với nhà Nguyễn:

  • Tích cực: giữ được quan hệ với các nước láng giềng nhất là Trung Quốc.
  • Hạn chế: Đóng cửa không đặt quan hệ với các nước phương Tây, không tạo điều kiện giao lưu với các nước tiên tiến đương thời. Vì vậy, không tiếp cận được với nền công nghiệp cơ khí, dẫn đến tình trang lạc hậu và bị cô lập.


Trắc nghiệm lịch sử 10 bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) - P2

Từ khóa tìm kiếm Google: tình hình chính trị kinh tế văn hóa nhà Nguyễn, chính sách ngoại giao nhà nguyễn, đánh giá chính sách ngoại giao của nhà nguyễn, đánh giá tích cực và hạn chế chính sách ngoại giao nhà Nguyễn.

Giải Bài Tập Lịch Sử 10 Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) giúp HS giải bài tập, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa học để các em có những hiểu biết cần thiết về lịch sử thế giới, nắm được những nét lớn của tiến trình lịch sử Việt Nam:

Trả lời:

Đánh giá chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn:

    • Tích cực: Giữ được mối quan hệ thân thiện với các nước láng giềng nhất là Trung Quốc.

    • Hạn chế: Bảo thủ, lạc hậu không tạo điều kiện giao lưu với các nước tiên tiến đương thời, dẫn đến tính trạng lạc hậu, trì trệ và bị cô lập. Chính chính sách này đã là cơ sở để các nước phương Tây lấy cái cớ tiến hành xâm lược Việt Nam.

Trả lời:

Ý nghĩa cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng:

    • Thể hiên sự thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

    • Tăng cường quyền lực trong tay vua tổ chức chính quyền chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, tăng cường tính chuyên chế.

    • Cách phân chia các tỉnh của Minh Mạng được dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với phạm vi quản lí của một tỉnh. Đây là cơ sở để phân chia các tỉnh như ngày nay.

Trả lời:

Nhận xét:

Ưu điểm

    • Các nghề thủ công tiếp tục phát triển, đặc biệt các nghề làm gốm sứ, kéo tơ, dệt vải lụa, nấu đường, khai mỏ. Xuất hiện nghề mới là in tranh dân gian.

    • Thủ công nghiệp nhà nước tổ chức với quy mô lớn, chế tạo được một số máy móc đơn giản.

Hạn chế : Do chính sách trưng tập thợ thủ công giỏi và sự quản lí của nhà nước, do việc giao thương khó khăn đã làm cho thủ công nghiệp không phát triển như trước.

Trả lời:

Nhận xét về người thợ thủ công Việt Nam:

– Người thợ thủ công Việt Nam tay nghề cao, kỹ thuật tốt, sáng tạo có thể làm ra những sản phẩm đẹp, chất lượng tốt đặc biệt biết sử dụng công nghệ kĩ thuật tiên tiến phương tây vào sản xuất.

– Tuy nhiên chế độ công tượng hà khắc đã kìm kẹp, hạn chế họ phát huy tài năng của mình.

Trả lời:

⇒ Nhà Nguyễn thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng” (đóng cửa, không giao tiếp với phương Tây) vì sợ các nước này nhòm ngó không buôn bán và không chấp nhận đặt quan hệ ngoại giao với họ.

    • Nhà nước giữ độc lập quyền về ngoại thương, hạn chế thương nhân nước ngoài vào buôn bán. Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi.

    • Cản trở việc giao lưu với những nước có nền kinh tế phát triển, không có điều kiện tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật hiện đại.

    • Nước ta tiếp tục trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu.

    • Thể hiện tính bảo thủ, không thức thời, không nhạy bén với thời cuộc.

Trả lời:

– Bộ máy chính quyền ngày càng hoàn thiện từ thời Nguyễn Ánh và Minh Mạng.

    • Thời Gia Long:

        + Chính quyền trung ương tổ chức lại theo mô hình của nhà Lê, tăng quyền lực của vua.

        + Chia đất nước làm 3 vùng: Bắc Thành, Gia Định thành và các Trực doanh. Chính quyền trung ương cai quản cả nước, Tổng trấn trông coi thành.

    • Thời Minh Mạng: Năm 1831 – 1832, vua Minh Mạng quyết định bãi bỏ Bắc thành và Gia Định thành chia cả nước là 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên.

– Nhận xét:

    • Nhìn chung bộ máy nhà nước thời Nguyễn giống thời Lê sơ.

    • Bộ máy nhà nước ngày càng hoàn chỉnh và chặt chẽ.

    • Những cải cách đó nhằm tập trung quyền lực vào tay vua vì vậy nhà nước thời Nguyễn vẫn là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tâp quyền.

Trả lời:

Những ưu điểm và hạn chế của kinh tế thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX :

– Nông nghiệp:

Ưu điểm: Ban hành lại chính sách quân điền, khuyến khích khai hoang, diện tích trồng trọt được mở rộng, quan tâm đến thủy lợi.

Hạn chế:

    • Kinh tế nông nghiệp còn lạc hậu.

    • Ruộng công ngày càng bị thu hẹp và nông dân hầu như không có ruộng đất.

– Thủ công nghiệp:

Ưu điểm:

    • Các nghề thủ công tiếp tục phát triển, đặc biệt các nghề làm gốm sứ, kéo tơ, dệt vải lụa, nấu đường, khai mỏ. Xuất hiện nghề mới là in tranh dân gian.

    • Thủ công nghiệp nhà nước tổ chức với quy mô lớn, chế tạo được một số máy móc đơn giản.

Hạn chế : Do chính sách trưng tập thợ thủ công giỏi và sự quản lí của nhà nước, do việc giao thương khó khăn đã làm cho thủ công nghiệp không phát triển như trước.

– Thương nghiệp:

Ưu điểm: Nhà nước bắt đầu cho một số thuyền sang các nước láng giềng giao lưu buôn bán.

Hạn chế:

    • Do chính sách thuế khoá nặng nề và phức tạp của nhà nước đã cản trở việc buôn bán trong nước.

    • Nhà nước giữ độc lập quyền về ngoại thương, hạn chế thương nhân nước ngoài vào buôn bán. Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi.

Trả lời:

STT Lĩnh vực Thành tựu
1 Tôn giáo Nho giáo trở thành tôn giáo độc tôn, tín ngưỡng dan gian tiếp tục phát triển.
2 Giáo dục Nho học được củng cố, tổ chức đều đặn các kì thi Hương, thi Hội để tuyển người làm quan.
3 Sử học Quốc sử quán được thành lập, nhiều bộ sử lớn ra đời: Lịch triều hiến chương loại chí, Lịch triều tạp kỉ,…
4 Văn học Văn học chữ Hán kém phát triển, văn học chữ Nôm đạt được rất nhiều thành tựu. Một số nhà thơ nổi tiếng như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,…
5 Nghệ thuật – Quần thể cung điện Huế, cột cờ Hà Nội,…

– Tiếp tục phát triển (nhã nhạc cung đình Huế, các loại hình ca nhạc dân gian,…)

Trả lời:

Đánh giá chung về nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX:

– Sau khi thành lập, nhà Nguyễn đã cố gắng để khôi phục lại địa vị của tư tưởng Nho giáo để làm chỗ dựa cho sự thống trị, đã cố gắng xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến theo hướng quân chủ chuyên chế cao độ. Tuy nhiên chế độ phong kiến vẫn tiếp tục lâm vào khủng hoảng càng càng nghiêm trọng.

– Nhà Nguyễn đã có nhiều cố gắng trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá song hiệu quả thấp.

– Để bảo vệ quyền lợi của mình, nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách kìm hãm sự phát triển của đất nước, không tạo được những chuyển biến mới theo kịp sự phát triển của thế giới.

– Vì vậy, trong gần nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã làm cho tiềm lực đất nước ngày càng suy yếu, không đủ sức kháng cự trước những đe dọa của chủ nghĩa thực dân đang đến gần.

Trang chủ » Lớp 10 » Lịch sử 10

Câu 1: Trang 127 – sgk lịch sử 10 Hãy đánh giá chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn?

Bài làm:

Nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách ngoại giao là:

  • Phục tùng nhà Thanh
  • Bắt Lào và chân Lạp thuần phục
  • Đóng cửa với các nước phương Tây

Với chính sách ngoại giao đó, đã mang đến những tích cực và tiêu cực đối với nhà Nguyễn:

  • Tích cực: giữ được quan hệ với các nước láng giềng nhất là Trung Quốc.
  • Hạn chế: Đóng cửa không đặt quan hệ với các nước phương Tây, không tạo điều kiện giao lưu với các nước tiên tiến đương thời. Vì vậy, không tiếp cận được với nền công nghiệp cơ khí, dẫn đến tình trang lạc hậu và bị cô lập.

Từ khóa tìm kiếm Google: tình hình chính trị kinh tế văn hóa nhà Nguyễn, chính sách ngoại giao nhà nguyễn, đánh giá chính sách ngoại giao của nhà nguyễn, đánh giá tích cực và hạn chế chính sách ngoại giao nhà Nguyễn.

Lời giải các câu khác trong bài

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Qua những chính sách của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX về kinh tế, chính trị, ngoại giao, hãy nêu nhận xét của em về những chính sách đó.

Các câu hỏi tương tự

Hãy nêu các thành tựu văn hóa tiêu biểu dưới thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn [nửa đầu thế kỉ XIX]

- Giáo dục: Giáo dục Nho học được củng cố song không bằng các thế kỉ trước.

- Tôn giáo: Độc tôn Nho học, hạn chế Thiên Chúa giáo, tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển.

- Văn học: Văn học chữ Nôm phát triển với nhiều tên tuổi: Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Du.

- Sử học: Quốc sử quán thành lập, nhiều bộ sử lớn được biên soạn: Lịch triều Hiến chương loại chí, Gia Định thành thông chí,...

- Kiến trúc: Kinh đô Huế, lăng tẩm, cột cờ Hà Nội,...

- Nghệ thuật dân gian tiếp tục phát triển.

Xem tiếp...

Hãy nêu những ưu điểm và hạn chế của kinh tế thời Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn [nửa đầu thế kỉ XIX]

a] Ưu điểm

- Nông nghiệp

     + Nhà nước thực hiện chính sách quân điền song do diện tích đất công ít nên tác dụng không lớn.

     + Công tác khai hoang được khuyến khích nên diện tích khai hoang được mở rộng.

- Thủ công nghiệp

     + Nhà nước được tổ chức với quy mô lớn, các quan xưởng được xây dựng để sản xuất vũ khí, đóng thuyền, làm đồ trang sức.

     + Thợ quan xưởng đã đóng được tàu thủy, tiếp cận với kĩ thuật chạy bằng máy hơi nước.

     + Trong nhân dân nghề thủ công truyền thống được duy trì

     + Nhiều nghề mới xuất hiện

b] Hạn chế

- Nông nghiệp

     + Nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền nông nghiệp thuần phong kiến, lạc hậu.

- Thủ công nghiệp

     + Do chế độ công tượng hà khắc nên việc tiếp cận công nghiệp cơ khí hạn chế.

     + Các làng nghề thủ công không phát triển bằng trước.

- Thương nghiệp

     + Phát triển chậm chạp do chính sách thuế khóa phức tạp của nhà nước.

     + Nhà nước nắm độc quyền buôn bán với các nước láng giềng, việc giao lưu với các nước phương Tây bị hạn chế. Điều này làm cho kinh tế chậm phát triển.

Xem tiếp...

Trình bày khái quát và nhận xét quá trình hoàn chỉnh bộ máy thống trị của nhà Nguyễn.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn [nửa đầu thế kỉ XIX]

- Bộ máy chính quyền ngày càng hoàn thiện từ thời Nguyễn Ánh và Minh Mạng.

- Năm 1802 khi lên ngôi Nguyễn Ánh đã tổ chức bộ máy chính quyền từ trung ương đến các địa phương quy củ chặt chẽ. Tổ chức các đơn vị hành chính: cả nước được chia thành ba vùng: Bắc Thành, Gia Định thành và các trực doanh do triều đình trực tiếp quản lý.

- Đến thời Minh Mạng, năm 1831 – 1832, bộ máy chính quyền hoàn chỉnh hơn, Minh Mạng chia cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ.

- Về luật pháp: Ban hành bộ luật Gia Long với các quy định chặt chẽ về việc bảo vệ nhà nước và các tôn ti trật tự phong kiến.

- Nhận xét:

     + Bộ máy nhà nước ngày càng hoàn chỉnh và chặt chẽ.

     + Nhìn chung bộ máy nhà nước thời Nguyễn giống thời Lê sơ

     + Những cải cách đó nhằm tập trung quyền lực vào vua vì vậy nhà nước thời Nguyễn vẫn là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tâp quyền.

Xem tiếp...

MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦATRIỀU NGUYỄN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIXTRẦN KIM NHUNG [*]Trong quan hệ đối ngoại nửa đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phải đốiphó với 3 đối tượng: Trung Quốc, các nước láng giềng ở Đông Nam Á [cụthể là Lào, Miên và Xiên Là] và các nước phương Tây.Đối với nhà Thanh, các vua Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thầnphục”, vốn là đường lối đối ngoại truyền thống quan trọng với Trung Quốc,của các triều đại phong kiến trước: nhận sách phong, thực hiện nghĩa vụtriều cống…Bỏ qua tất cả những thủ tục, nghi lễ phát sinh từ “sách phong” và“triều cống”, mà thực ra chỉ có ý nghĩa hình thức, thực tế lịch sử cho thấynhà Nguyễn hoàn toàn tự chủ trong việc hoạch định chính sách đối nội lẫnchính sách đối ngoại. Còn việc nhà Nguyễn lấy chế độ phong kiến MãnThanh làm kiểu mẫu cho việc xây dựng bộ máy cai trị của nó, thì đây là vấnđề thuộc về phạm trù tư tưởng, chúng tôi sẽ bàn sau. Cũng giống như những triều đại phong kiến trước, nhà Mãn Thanhchưa bao giờ từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam vàluôn sẵn sàng thực hiện tham vọng này ngay khi có dịp. Vì lẽ đó, sự việckhông xảt ra một cuộc va chạm nào đáng kể trong quan hệ giữa hai nước chođến năm 1858 chỉ có nghĩa là nhà Nguyễn nhìn chung đã hoàn thành tốtnhiệm vụ đối ngoại của một nhà nước độc lập là bảo vệ chủ quyền dân tộcvà sự toàn vẹn lãnh thổ.Quan hệ với một số nước lân bang trong khu vực Đông Nam Á thìkhông được phẳng lặng như với Trung Quốc. Đại Nam và Xiêm La bị chiphối bởi nỗ lực tranh giành ưu thế trên bán đảo Trung - Ấn, cụ thể là đối vớiMiên và Lào. Sau các cuộc xung đột giữa hai nước trên lãnh thổ Lào diễn ravào cuối thập niên 1820 và giữa thập niên 1830, Đại Nam đã xác lập đượcưu thế đối với Lào và thậm chí còn sáp nhập một phần lãnh thổ của nướcnày.Quan hệ giữa Đại Nam và Xiêm La quanh vấn đề Chân Lạp diễn raphức tạp hơn. Năm 1833, giữa hai nước đã diễn ra chiến tranh trên lãnh thổMiên và đất Châu Đốc, Hà Tiên. Sau khi dồn đuổi quân Xiêm La về nước,từ năm 1834, Minh Mạng đã sáp nhâp lãnh thổ Miên vào Đại Nam, đổi tênthành Trấn Tây thành và cử người sang cai trị. Năm 1840, dân Miên đã nổidậy chống ách cai trị của triều Nguyễn. Chính quyền Xiêm La nhân cơ hộiđưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La nhân cơ hộiđưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La lại bùng raxung đột vũ trang, mà kết quả là cả Xiêm Là và Đại Nam đều lần lượt rútquân: 1845 và 1847.Đã có quan điểm cho rằng hoạt động bành trướng và tranh giành ưuthế trên bán đảo Trung - Ấn đã gây hao tổn không ít cho Đại Nam và thậmchí gây phương hại đến quan hệ giữa các nước trong vùng, giữa lúc mớInguy cơ có từ chủ nghĩa thực dân phương Tây lớn lên một cách nhanhchóng. Thậm chí có tác giả còn cho đây là một trong những nguyên nhânthắng lợi của chủ nghĩa thực dân phương Tây.Quan điểm trên vừa đúng, lại vừa không đúng. Chỗ đúng của nó đãđược phân tích kỹ. Cỏn chỗ không đúng của nó là triều Nguyễn không thể vìmột cơn dông đang từ chân trời xa kéo đến mà quên đi việc dập tắt đám cháyđang hoành hành gần ngay căn nhà của mình. Chỉ có thể trách rằng triềuNguyễn đã không tìm ra phương sách đúng đắn để xoá bỏ mối hiềm khíchvới người láng giềng: thương lượng hoà bình thay vì bạo lực quân sự.Nhưng vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, đòi hỏi ở nhà Nguyễn những điềumà mãi đến gần hai thế kỷ sau vẫn chưa hoàn toàn khả thi ở rất nhiều nơitrên thế giới, thì liệu có phi lịch sử không?Rốt cuộc lại, nếu trong hoạt động đối ngoại của triều Nguyễn có gì đóđáng bị phê phán thì đó chỉ có thể là đã không tìm ra phương sách đúng đểđối phó với “hoạ Tây dương”. Phương Tây không phải là điều hoàn toànmới mẻ đối với các vua Nguyễn.Góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Nguyễn Ánh có nhân tốphương Tây [con người, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự…]. Dưới triều GiaLong, một số quan lại trong triều là người phương Tây, cụ thể là nhữngngười Pháp. Sự có mặt của nhân tố phương Tây trên lãnh thổ Đại Nam dướithời các vua kế nghiệp vẫn được duy trì, đặc biệt là giáo sĩ và thương nhân,bất chấp bao khó khăn, trở ngại. Được vua cha Gia Long truyền ngôi với lờitrối trăn vừa ẩn ý vừa cụ thể: “PhảI đảm bảo thường xuyên một đội lính gác50 tên để coi sóc bảo vệ lăng một của Bá Đa Lộc và không được khủng bốcác tín đồ đạo Nho, đạo Phật, đạo Thiên Chúa vì cả ba đạo đó đều tốt nhưnhau và việc khủng bố tôn giáo bao giờ cũng tạo cơ hội cho các biến độngvà gây thù oán trong dân gian, thường khi còn làm sụp đổ ngôi vua.” [1].Minh Mạng không hoàn toàn cự tuyệt quan hệ với phương Tây. Khoa học vàkỹ thuật phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự, cuốn hút sự chú ýcủa ông. Cho đến những năm cuối thập niên 30, nhiều thương nhân phươngTây vẫn được phép mua bán hàng hoá tại các cảng quy định [2], dù mọI đềnghị ký kết văn kiện chính thức đều bị khước từ. Đáng chú ý hơn là năm1840, giữa lúc cuộc Chiến tranh Nha phiến [1839 – 1842] đang diễn ra,Minh Mạng đã chủ động cử một phái bộ sang Pháp và Anh để thăm dò khảnăng đi đến một hiệp ước về bang giao và thương mại. Tuy không đạt kếtquả, việc làm mang tính chất đột phá này rất tiếc là không được hai vị vua kếnghiệp - Thiệu Trị và Tự Đức tiếp nối. Vì sao?Nguyên nhân dễ thấy nhất là bản thân các vua Nguyễn, kể cả GiaLong người có nhiều quan hệ qua lại với phương Tây nhất [3] hoặc MinhMạng, người luôn tỏ rõ sự hiếu kỳ đối với các vật phẩm phương Tây [đặcbiệt là khí tài quân sự], chưa bao giờ thực sự thấu hiểu phương Tây. Họ nhìnthấy ưu thế của phương Tây trong nhiều lĩnh vực, thậm chí sẵn sàng học tậpnó [thí dụ điển hình là Minh Mạng], nhưng chỉ vì những mục đích hoàn toànthực dụng: Gia Long vì cuộc nội chiến chống nhà Tây Sơn, Minh Mạng vìyêu cầu xây dựng một thể chế vững chắc. Họ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi: Vìsao phương Tây lại tỏ ra hùng mạnh như vậy? Câu hỏi này là một phần củathế giới quan. Thực tế cuộc sống cho thấy cho những hiện tượng hiện ra sờsờ ngay trước mắt mọi người hết ngày này qua tháng nọ, có khi đến cả chụcnăm, trăm năm, trở thành quen thuộc đến mức mọi người đều tưởng rằng đãhiểu nó, nên chẳng ai buồn đặt ra câu hỏi tại sao.Thế giới quan của các vua quan nhà Nguyễn nằm trong khuôn khổNho giáo và chẳng ai muốn từ bỏ nó [4]. Vì vậy, đối với phương Tây, cùnglắm họ chỉ nhìn thấy được sức mạnh của nó, nhưng không cách nào giảithích được nguồn gốc của sức mạnh đó. Và vì thế trong mắt họ, ngườiphương Tây hiện ra như là giống người trí trá, gian giảo, không biết lễnghi…, hoặc nói theo Tự Đức: “Theo cách lập thuyết của họ, thì không cóngũ hành tương sinh tương khắc, như đã trái lẽ mà không hợp với cổ nhânrồi, lấy gì mà suy tôn họ nữa.” [5]Trong trường hợp này, phản ứng thông thường là vừa phấn khích [vìtò mò], vừa sợ sệt [vì không hiểu]. Họ muốn được mạnh như phương Tây,nhưng lại e dè không dám quan hệ quá thân thiết với nó. Do vậy, quan hệgiữa họ với phương Tây là một thứ quan hệ nửa vời: sử dụng con người vàkỹ thuật phương Tây, nhưng không bao giờ chực bỏ công tìm hiểu conngười – văn hoá phương Tây, tiếp thu một số thành tựu khoa học - kỹ thuậtphương Tây, nhưng cự tuyệt văn hoá – tôn giáo phương Tây, buôn bán vớithương nhân phương Tây, nhưng tìm đủ cách để chối từ để ký một thươngước hay lập quan hệ ngoại giao chính thức kể cả với Pháp, nước phương Tâyđược ưu đãi nhất.Thứ quan hệ nửa vời vừa không sao trở thành nhân tố giục giã việchoạch định một chính sách lâu bền, nhất quán và phù hợp, vừa không thể tồntại vững bền và do vậy sẽ bị chấm dứt ngay khi nó vấp phải những khó khănđầu tiên và những khó khăn đầu tiên và những khó khăn đó xuất hiện vàocuối thập niên 1830, đầu thập niên 40, khi Trung Quốc, nước mà chế độphong kiến Việt Nam, kể cả nhà Nguyễn, xem là tấm gương để noi theotrong mọi sự, bị thất thế trước phương Tây. Sự kiện này đã làm Minh Mạngrung động và ông đã đối phó ngay.Giữa lúc cuộc chiến Nha phiến còn đang tiếp diễn, Minh Mạng đã cửnhiều phái đoàn đến những địa điểm có mặt người Âu trong vùng ĐôngNam Á để thăm dò tình hình, và sang cả Anh, Pháp như đã đề cập ở trên[5].Phương thức đối phó này phản ánh cá tính của Minh Mạng – năng động,quyết đoán, chứ không phải là sự tiếp nối logic của một chủ trương lâu dàivà nhất quán đã được xác định từ trước đó. Chính vì vậy, sau khi MinhMạng đột ngột qua đời [tháng 1 – 1841], toan tính vừa kể của ông đã khôngđược các vị vua kế nghiệp tiếp tục, nhất là trong hoàn cảnh vào những nămsau đó, các tàu Pháp thường xuyên tỏ thái độ gây hấn hoặc thị uy ở cảnh ĐàNẵng, nơi các tàu ngoại giao phương Tây được phép cập bến.Việc Thiệu Trị và nhất là Tự Đức quay lưng hẳng với phương Tâyvừa phản ánh tính nửa vời trong quan hệ giữa Đại Nam và phương Tây, vừahoàn toàn phù hợp với cá tính của Tự Đức: một con người chú trọng đến vănthơ hơn khoa học, kỹ thuật và không quyết đoán.Muốn buôn bán với phương Tây, nhưng từ chối bất kỳ quan hệ nàomang tính pháp lý là chủ trương hoàn toàn trái ngược hẳn với quan điểmphương Tây.Từ nửa sau thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản Tây Âu đã chuyển từ giaiđoạn tích luỹ nguyên thuỷ sang giai đoạn công nghiệp. Chủ nghĩa tư bảnđược củng cố ngày càng vững chắc cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng [cáchmạng công nghiệp] và kiến trúc thượng tầng, sau những thắng lợi của mộtloạt cách mạng tư sản. Đáng chú ý là xu hướng xây dựng nhà nước Phápquyền được đẩy mạnh, mà biểu hiện cụ thể là đạo luật về các quyền [1689]của Anh, Hiến pháp 1776 của Hoa Kỳ, Hiến pháp 1792 của Pháp và bộ luậtNapoléon, một loạt bộ luật về lao động và thương mại đại hàng hải của Anhtrong các thế kỷ XVII – XVIII. Hoạt động quốc tế của chủ nghĩa tư bảnphương Tây vừa được đẩy mạnh ở Viễn Đông, vừa được hướng theo xuhướng pháp chế hoá. Các đại biểu của phương Tây muốn quan hệ giữa họ vàcác nước phương Đông trong mọi lĩnh vực [ngoại giao, thương mại, tôngiáo…] được đặt trên nền tảng pháp lý vững vàng, nghĩa là trên cơ sở củanhững văn kiện ngoại giao cấp quốc gia có giá trị lâu dài. Rõ ràng là chủnghĩa tư bản công nghiệp Âu Tây đang rất cần một thị trường tiêu thụ hànghoá và cung cấp nguyên vật liệu ổn định. Nhu cầu này phải được thoả mãnbằng mọi cách. Nếu không mang lại kết quả, thì phương sách ngoạI giao tấtphải nhường bước cho bạo lực quân sự.Đáng tiếc cho nước nhà vào nửa đầu thế kỷ XIX, bang giao quốc tế ởViễn Đông đã bị đảo lộn hoàn toàn bởi sự có mặt của một nhân tố không chỉmới, mà còn mang tính cách mạng: đó là vai trò ngày càng trở nên quantrọng với nhịp độ mau chóng của các cường quốc phương Tây, đặc biệt làcủa Anh và Pháp. Vị thế cường quốc số một, duy nhất và chưa hề bị tháchthức từ cả ngàn năm nay trong vùng của Trung Quốc bị thách thức nghiêmtrọng. Và do vậy, việc xác lập một đường lối ngoại giao dù đúng đắn đếnđâu chăng nữa sẽ chẳng còn có ý nghĩa tích cực trong sự nghiệp bảo vệ độclập dân tộc, nếu đường lối đó chỉ lấy Trung Quốc làm đối tượng nhắm đếnduy nhất.Thật không thể phủ nhận rằng sau hơn 50 năm cai trị đất nước [1802 –1858], các vua đầu nhà Nguyễn đã để lại một di sản không nhỏ, trong đó cónhững thứ còn phát huy tác dụng cho đến ngày nay. Nhưng vì sao dù đã tậntâm hết mức, các vua Nguyễn cuối cùng vẫn không sao làm tròn sứ mệnhcủa tầng lớp thống trị: thái bình thịnh trị trong đối nội, độc lập dân tộc vàtoàn vẹn lãnh thổ trong đối ngoại?Không thể không thừa nhận tính đúng đắn, tích cực trong nhiều chínhsách của nhà Nguyễn và chúng đã mang lại hiệu quả trong thực tế khôngnhỏ. Nhưng xem chừng vẫn còn rất nhiều vướng mắc, thậm chí mâu thuẫn:trọng nông, nhưng lai ức thương; nhận thức rằng “văn cử nghiệp làm lầmngười ta đã lâu”, nhưng lại kết luận rằng: “Tập tục theo nhau, khó mà thayđổi. Vài năm nữa nên bàn thay đổi”; cố duy trì quan hệ hoà hiếu với TrungQuốc, nhưng lại “bế quan toả cảng” với phương Tây – không khước từ buônbán với các thương nhân phương Tây, nhưng cự thuyệt mọi đề nghị dẫn đếnmột văn kiện pháp lý chính thức; chú tâm tìm hiểu kỹ thuật phương Tây,nhưng lại bằng lòng với lời giải thích rằng đó là trò “trí trá, gian giảo”; vàcòn nhiều mâu thuẫn nữa, để rồi cuối cùng thừa nhận rằng tình hình đấtnước đòi hỏi những cải cách, nhưng không mạnh dạn mang ra thực hiệnnhững sáng kiến nhận được.Các tài liệu chính thức cho thấy các vua Nguyễn không đến nỗi xa rờithực tế đất nước, họ biết rằng cần phải thực hiện những sửa đổi, nhưng cácbiện pháp đưa ra đều mang tính nửa vời, không đủ sức chuyển đổi tình hình.Rõ ràng là tầm nhìn của họ bị hạn chế, chính xác hơn: thế giới quan của họkhông vượt thoát ra ngoài khuôn khổ Khổng giáo.Tình trạng khủng hoảng kéo dài cả hai thế kỷ [tính từ thế kỷ XVI] [6]của xã hội phong kiến Việt Nam cho thấy những giải pháp truyền thốngtrong khuôn khổ tư duy Khổng giáo từ lâu đã không còn hiệu nghiệm. Xãhội Việt Nam đầu thế kỷ XIX cần những giải pháp mạnh bạo hơn, mang tínhđột phá, nghĩa là phi truyền thống vượt ngoài khuôn khổ tư duy Khổng giáo.Lịch sử các nước cho thấy những giải pháp cách mạng như vậy có thểđến từ hai hướng: tự phát sinh ở bên trong hoặc được du nhập từ bên ngoài.Hoàn cảnh lịch sử, môi trường văn hoá, vị trí địa lý, điều kiện xã hội, cụ thểlà: nội chiến, loạn lạc triền miên, ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hoá TrungHoa [và đầy là loại nền văn hoá vừa lớn], ở sát cạnh người láng giềng khổnglồ vừa mạnh vừa luôn có tham vọng bành trướng [nhu cầu quốc phòng trởthành yếu tố chủ đạo trong sinh hoạt của cả dân tộc], mầm mống tư bản chủnghĩa không đủ mạnh để tạo ra động lực vật chất cho tư duy sáng tạo, khảnăng tư duy sáng tạo rất có hạn của trí thức trong nước. Tất cả không tạothuận lợi cho sự phát sinh tại chỗ những giải pháp phi Khổng giáo.Thương nhận và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam không trễ hơn baonhiều so với các nước khác trong khu vực, nghĩa là cũng từ thế kỷ XVI,đúng vào thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu sa vào bước đườngkhủng hoảng. Đây là cơ hội để giới thống trị và trí thức nước nhà tiếp cậnnhững vấn đề mà xã hội phong kiến đặt ra từ góc độ phi Khổng giáo.Tiếc rằng ở giới thống trị thì thừa tính thực dụng, còn ở các trí thức thìlại quá thiếu sự tò mò tri thức. Kết cục là họ chỉ biết dùng mà mãi vẫn khôngbiết cách chế tạo ra những sản phẩm được các đại biểu phương Tây mangđến.Trong quan hệ với phương Tây, các vua Nguyễn và trí thức quan lạitriều Nguyễn không đi ra ngoài phong cách trên. Hậu quả là bệng thì có lúcgiảm, nhưng không bao giờ dứt hẳn và khi tái phát thì bệnh lại trở nặng hơnlúc trước, trong lúc thần chết đã lù lù đứng sẳn ở đầu giường. Thực tế lịch sử cho thấy thực dân phương Tây trở thành mối đe doạnguy hiểm đối với độc lập dân tộc trong trường hợp căn bệnh của xã hộIphong kiến đó không được chữa trị đúng thuốc và đúng liều. Nhật Bản vàTrung Quốc, Xiêm La và Việt Nam là những thí dụ rõ ràng nhất.SOME THOUGHTS ABOUT DIPLOMATIC POLICY OFNGUYEN DYNASTY IN THE FIRST 19TH SEMI – CENTURYTRAN KIM NHUNGIn the diplomatic relation of the first 19th semi – century, the Nguyendynasty must face to three objects: China, South – East neighbours [Lao,Cambodia, Siam] and the Western countries. The relation between Nguyendynasty and China and the South – East neighbours sometimes proceededcomplicatedly, but we can say that the Nguyen dynasty has completedperfectly their diplomatic mission as an independent Government. Buttowards the Western countries, the Nguyen dynasty has exposed a lot ofweak points, and that’s the reason of the serious sickness oc the Vietnamesefeudalism started falling in the situation of crisis.CHÚ THÍCH1. Launay. Histoire générale de la Société des Mission Etrangères,Paris, 1894. - Dẫn lại theo Nguyễn Phan Quang, Việt Nam nửa đầuthế kỷ XIX, mở cửa hay đóng cửa?, trong sách Những vấn đề vănhoá – xã hội thời Nguyễn, tr. 31.2. Thậm chí năm 1825, Minh Mạng còn viết thư hỏi sứ quán Anh ởSingapore vì sao thương nhân Anh không đến buôn bán tại các cửakhẩu Đại Nam nữa? [Dẫn theo Nguyễn Thế Anh. Kinh tế và xã hộiViệt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Sđd, tr. 266].3. Một nhà nghiên cứu nước ngoài đã nhận xét: “Nếu đem so vớiTrung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản cùng thời kỳ, nước Việt Namcủa Gia Long đã có nhiều kinh nghiệm cộng tác với người TâyDương, nhất là người Pháp và đã áp dụng nhiều kỹ thuật của Tâyphương”. [Yoshiharu Tsuboi. Nước Đại Nam…, tr. 50].4. - Rất đáng chú ý những lập luận của vua quan nhà Nguyễn về quanhệ Đại Nam – phương Tây.- Gia Long năm 1803: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại chongười ngoài được” [Thực lục, t. III, Tr. 124]- Gia Long năm 1804: “Tiên vương kinh dinh việc nước không đểngười Hạ lẫn với người Di, đó là thực cái ý đề phòng từ lúc việccòn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí dá, không phải nòi giốngta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiếnvề…” [Thực lục t. III, tr. 193].- Minh Mạng năm 1821: “… Còn vấn đề thương ước thì có thể giảiquyết theo lối thông thường: xuất cảng, nhập cảng nước Việt Namđã có định lệ rõ ràng, các nước ngoài vẫn áp dụng xưa nay, nếumuốn khỏi phiền phức cho cả hai bên, thì quả nhân tưởng khôngnên lập thêm, hay là lập riêng một thương ước khác” [Ưng Trình.Việt Nam ngoại giao sử cận đại, tr. 35].- Năm 1836, Thị lang nội các Hoàng Quýnh: “Nước họ xảo quyệtmuôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau.Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, ta cự tuyệt Tây vực thực làchước hay chống cự nhung địch” [Thực lục t. XVIII, tr. 109 –110].- Trong tờ số của mình, Kiêm quản viện đô sát Vũ Đức Khuê đãtrình bày quan điểm của mình về việc thông thương với phươngTây: “Các nước di dịch ở phương Tây lớn mạnh nhất không nơinào bằng Đại Tây, Tiểu Tây, chỉ lấy việc buôn bán xây dựng chonước, nếu chỗ nào có lợi, cố sức hầu chết lấy cho bằng được…Việc ngăn giữ từ lúc mới chớm có và khi còn nhỏ, không nênkhông sớm tính đến. Vậy nên tự ta trước đóng cửa cự tuyệt việc đilại, để họ coi ta như Trời, không biết đâu mà lường… Từ xưa đã cóquốc gia là phải nghiêm nghị cự tuyệt, không thèm cùng họ tínhcái lợi trước mắt.” [Thực lục, t. XXV, tr. 190].5. Dẫn lạI theo Nguyễn Phan Quang, Lê Hữu Phước. Khởi nghĩaTrương Định, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1989, tr. 25.6. Xem chi tiết trong Đinh Thị Dung, Quan hệ Ngoại giao trong triềuNguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, 2001.7. “Bước sang thế kỷ XVI, những mâu thuẫn bên trong của chế độnhà Lê bắt đầu bộc lộ gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấpquyết liệt và những cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiếnđối lập. Sự suy yếu của triều Lê đồng thời đánh dấu bước đườngsuy yếu kéo dài của các quốc gia phong kiến tập quyền.” [NguyễnPhan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh. Lịch sửViệt Nam [1427 – 1858], Q.2, tr.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1977,tr. 50].

Video liên quan