Nhược điểm của phương pháp thuyết trình

1. Đặc điểm của phương pháp

          Phương pháp thuyết trình- bao gồm các dạng của nó là giảng thuật [trần thuật], giảng giải và giảng diễn [diễn giải]- là phương pháp dạy học mà phương tiện cơ bản dùng để thực hiện là lời nói sinh động của giáo viên.

          Ở trong nhà trường, một dạng được sử dụng thông thường nhất và phổ biến nhất là phương pháp thuyết trình thông báo- tái hiện. Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp này là tính chất thông báo của lời giảng của thầy và tính chất tái hiện sau khi lĩnh hội của trò. Những kiến thức đến với học sinh theo phương pháp này như đã được thầy chuẩn bị sẵn để trò thu nhận. Họ chỉ nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy trò, hiểu, ghi chép và ghi nhớ.

2. Cấu trúc logic của phương pháp thuyết trình

          Đối với mỗi vấn đề trọn vẹn, thông thường sự thông báo phải trải qua 4 bước: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận về vấn đề nêu ra. Mỗi bước có một nhiệm vụ nhất định.

          Bước 1. Đặt vấn đề

          Vấn đề được thông báo dưới dạng chung nhất, có một phạm vi rộng, nhằm gây ra sự chú ý ban đầu của học sinh, tạo ra tâm thế bắt đầu làm việc và định hướng nghiên cứu.

          Bước 2. Phát biểu vấn đề

          Ngay sau khi thông báo đề tài nghiên cứu, giáo viên nêu ra những câu hỏi cụ thể hơn, thu hẹp phạm vi nghiên cứu, chỉ ra trọng điểm cần xem xét cụ thể nhằm tạo ra nhu cầu của học sinh đối với kiến thức, gây hứng thú và động cơ học tập; đồng thời cũng vạch ra nội dung và dàn ý cần nghiên cứu.

          Bước 3. Giải quyết vấn đề

          Giáo viên có thể tiến hành giải quyết vấn đề theo 2 logic phổ biến: quy nạp hoặc diễn dịch.

          Theo logic quy nạp, giáo viên có thể áp dụng 3 cách trình bày khác nhau tuỳ đặc điểm của nội dung:

a. Quy nạp phân tích từng phần: Nếu nội dung các vấn đề đặt ra [ở bước 2] tương đối độc lập với nhau, ta có thể giải quyết dứt điểm từng vấn đề, rồi sơ bộ kết luận về vấn đề đó. Giải quyết xong vấn đề thứ nhất rồi chuyển sang vấn đề thứ 2,...

b. Quy nạp phát triển: Các vấn đề cụ thể được giải quyết theo lối “móc xích”. Nói chung đáp số của vấn đề trước là tiền đề giải quyết vấn đề sau.

c. Quy nạp so sánh [hay song song- đối chiếu]: Nếu nội dung của tài liệu giáo khoa chứa đựng những mặt tương phản đối lập chẳng hạn tính kim loại và tính phi kim, tính axit và tính bazơ… giáo viên có thể so sánh những thuộc tính này ở 2 đối tượng tương phản [magie và lưu huỳnh, Mg[OH]2 và H2SO4…] để rút ra kết luận cho từng điểm so sánh.

          Theo logic diễn dịch, giáo viên đưa ra kết luận sơ bộ, khái quát. Sau đó tiến hành giải quyết vấn đề theo 3 chác vừa nói trên [phân tích từng phần, phát triển, so sánh- đối chiếu]. Ba cách giải quyết này giữ vai trò minh hoạ cho kết luận sơ bộ nói trên.

          Bước 4. Kết luận

          Kết luận phải là sự kết tinh dưới dạng cô đọng, chính xác, đầy đủ những khái quát bản chất nhất của vấn đề đưa ra xem xét. Kết luận chính là câu trả lời cô đọng cho những câu hỏi đã được nêu lên ở bước 1, 2. Kết luận có giá trị đức dục quan trọng đối với học sinh chính vì tính khái quát cao của nó.

3. Những yêu cầu sư phạm đối với phương pháp thuyết trình

a. Những yêu cầu sư phạm đối với phương pháp thuyết trình đã được trình bày trong các tài liệu Giáo dục học. Đó là:

          - Bảo đảm tính giáo dục, tính khoa học, tính thực tiễn của nội dung thuyết trình;

          - Bảo đảm sự trong sáng, rõ ràng, dễ hiểu của việc trình bày tài liệu;

          - Bảo đảm tính hình tượng và tính diễn cảm của việc trình bày tài liệu.

          - Bảo đảm thu hút sự chú ý và phát huy tính tích cực tư duy của học sinh;

          - Bảo đảm cho học sinh ghi chép được và biết cách ghi chép [1]. Trong một số tài liệu khác còn nhấn mạnh yêu cầu về tính chặt chẽ về mặt logic, tính thuyết phục và thái độ cử chỉ đúng mực của giáo viên [2].

b. Những yêu cầu về nghệ thuật của lời nói của giáo viên

          Để tăng sức truyền cảm và hiệu quả của lời nói giáo viên trong phương pháp thuyết trình cũng như trong các phương pháp dạy học khác, người giáo viên phải rèn luyện và phấn đấu đạt được các yêu cầu sau đây khi trình bày bằng lời:

          - Lời nói của giáo viên phải chính xác, được chọn lọc chuẩn xác và có nội dung phong phú.

          - Lời nói giáo viên phải trong sáng, dễ hiểu, súc tích, gọn, đúng ngữ pháp. Không nói ngọng, nói lăp.

          - Khi trình bày phải thể hiện tình cảm. Có những đoạn bài giảng, lời nói của giáo viên phải xúc cảm. Học sinh thường thích nghe giọng nói bình tĩnh, êm dịu, nhưng nhiệt tình sôi nổi đúng mức. Học sinh thường rất có thiện cảm trước những tình cảm chân thành nhưng dễ chán ghét đối với tính cảm giả tạo, phô trương. Giọng nói gắt gỏng sẽ làm học sinh phật ý, nhưng giọng nói đều đều hoặc quá nhỏ cũng gây căng thẳng không cần thiết. Phải biết luyện giọng, điều chỉnh âm sắc.

          Điệu bộ và nét mặt là một phương tiện quan trọng nâng cao sức truyền cảm của lời nói nếu được phối hợp nhịp nhàng với nội dung trình bày, nhưng không nên lạm dụng.

          - Nhịp điệu lời nói vừa phải, những chỗ khó được trình bày chậm hơn, chỗ dễ được trình bày nhanh hơn. Trong khi đang trình bày, giáo viên không nên đi lại ở trong lớp mà nên đứng cạnh bảng đen, nhưng vào lúc chuyển sang vấn đề mới thì có thể đi lại ở trong lớp.

          Thay đổi nhịp điệu giọng nói hoặc ngắt quãng lâu hơn khi nhấn mạnh những thuật ngữ mới, định nghĩa, công thức hoá học mới…

          - Khi trình bày, có thể viết lên bảng các tiểu mục, các thuật ngữ mới, công thức, phương trình phản ứng và vẽ một số sơ đồ tóm tắt.

4. Đánh giá phương pháp thuyết trình

          - Phương pháp thuyết trình có nhiều ưu điểm:

          a. Phương pháp thuyết trình cho phép giáo viên truyền đạt những nội dung lí thuyết tương đối khó, phức tạp mà học sinh không dễ dàng tự mình tìm hiểu lấy được.

          b. Nội dung học tập được trình bày có logic và lập luận chặt chẽ. Phương pháp cho phép giáo viên trình bày một mô hình mẫu của tư duy logic, của cách đề cập và lí giải một vấn đề khoa học. Do đó phương pháp này giúp học sinh mô hình mẫu của tư duy khoa học, qua đó sẽ giúp trò phát triển trí tuệ.

          c. Lời giảng của giáo viên có thể gây cảm xúc mạnh mẽ và ấn tượng sâu sắc. Sức truyền cảm mạnh của lời nói giáo viên cùng với toàn bộ nhân cách của giáo viên khi tiếp xúc trực tiếp sẽ giúp học sinh hình thành những tư tưởng và tình cảm lành mạnh, cao đẹp, những niềm tin và hoài bão.

          d. Tiết kiệm thời gian nhất. Có thể truyền đạt một lượng thông tin lớn cùng một lúc cho nhiều học sinh trong một khoảng thời gian hạn chế.

          - Phương pháp thuyết trình thông báo- tái hiện có một số nhược điểm lớn là: chỉ đòi hỏi một quá trình nhận thức thụ động ở học sinh; không giúp trò phát triển ngôn ngữ nói vì học sinh chỉ nghe; chỉ cho phép học sinh đạt tới trình độ tái hiện sự lĩnh hội.

Trở lại

5.3.2.Phương pháp thuyết trình.5.3.2.1 Định nghĩa và phân loại phương pháp đàm thoại.5.3.2.1.1. Định nghĩa Phương pháp thuyết trình là phương pháp mang tính chất thông báo ,tái hiện giải thích,minh hoạ.Giáo viên dùng lời để thông báo kiến thức mới , dùng giảng giải để giải thíchminh hoạ làm sâu sắc thêm kiến thức trọng tâm và hệ thống hoá chúng lại. 5.3.2.1.2. Phân loại. Phương pháp thuyết trình bao gồm: Trần thuật, diễn giảng ,giảng giải và thuyết trìnhOrictic -Trần thuật: Thời gian trình bày ngắn hơn ,nội dung truyền đạt ít hơn so với diễngiảng.Chủ yếu dùng để giới thiệu tiểu sử các nhà bác học ,lịch sử phát minh các định luậthay bảng hệ thống tuần hoàn - Diễn giảng và giảng giải : Được sử dụng nhiều hơn trong các giờ học hoá học ởtrường THPT.Diễn giảng mang tính chất thuyết trình nhiều hơn còn giảng giải mang tínhchất gải thích chứng minh nhiều hơn -Thuyết trình Orictic: Phải có bài toán nhận thức, tuân thủ các nguyên tắc của dạy họcnêu vấn đề chỉ có điều các quá trình thực hiện bằng lời nói của giáo viên.5.3.2.2. Cấu trúc logic của phương pháp.Đối với mỗi vấn đề trọn vẹn, thông thường sự thông báo phải trải qua 4 bước: đặt vấn đề,phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận về vấn đề nêu ra. Mỗi bước có một nhiệmvụ nhất định.Bước 1. Đặt vấn đề.Vấn đề được thông báo dưới dạng chung nhất, có một phạm vi rộng, nhằm gây rasự chú ý ban đầu của học sinh, tạo ra tâm thế bắt đầu làm việc và định hướng nghiên cứu.Bước 2. Phát biểu vấn đề.Ngay sau khi thông báo đề tài nghiên cứu, giáo viên nêu ra những câu hỏi cụ thểhơn, thu hẹp phạm vi nghiên cứu, chỉ ra trọng điểm cần xem xét cụ thể nhằm tạo ra nhucầu của học sinh đối với kiến thức, gây hứng thú và động cơ học tập; đồng thời cũng vạchra nội dung và dàn ý cần nghiên cứu.Bước 3. Giải quyết vấn đề.Giáo viên có thể tiến hành giải quyết vấn đề theo 2 logic phổ biến: quy nạp hoặcdiễn dịch.Theo logic quy nạp, giáo viên có thể áp dụng 3 cách trình bày khác nhau tuỳ đặcđiểm của nội dung: a. Quy nạp phân tích từng phần: Nếu nội dung các vấn đề đặt ra [ở bước 2] tương đốiđộc lập với nhau, ta có thể giải quyết dứt điểm từng vấn đề, rồi sơ bộ kết luận về vấn đềđó. Giải quyết xong vấn đề thứ nhất rồi chuyển sang vấn đề thứ 2,... b. Quy nạp phát triển: Các vấn đề cụ thể được giải quyết theo lối “móc xích”. Nói chungđáp số của vấn đề trước là tiền đề giải quyết vấn đề sau. c. Quy nạp so sánh [hay song song- đối chiếu]: Nếu nội dung của tài liệu giáo khoa chứađựng những mặt tương phản đối lập chẳng hạn tính kim loại và tính phi kim, tính axit vàtính bazơ… giáo viên có thể so sánh những thuộc tính này ở 2 đối tượng tương phản[magie và lưu huỳnh, Mg[OH]2 và H2SO4…] để rút ra kết luận cho từng điểm so sánh.Theo logic diễn dịch, giáo viên đưa ra kết luận sơ bộ, khái quát. Sau đó tiến hànhgiải quyết vấn đề theo 3 chác vừa nói trên [phân tích từng phần, phát triển, so sánh- đốichiếu]. Ba cách giải quyết này giữ vai trò minh hoạ cho kết luận sơ bộ nói trên.Bước 4. Kết luận.Kết luận phải là sự kết tinh dưới dạng cô đọng, chính xác, đầy đủ những khái quátbản chất nhất của vấn đề đưa ra xem xét. Kết luận chính là câu trả lời cô đọng cho nhữngcâu hỏi đã được nêu lên ở bước 1, 2. Kết luận có giá trị đức dục quan trọng đối với họcsinh chính vì tính khái quát cao của nó.5.3.2.3. Yêu cầu sư phạm đối với phương pháp.- Giáo viên phải trình bày chính xác các sự kiện, hiện tượng, khái niệm, định luật,vạch ra được bản chất của vấn đề, ý nghĩa tư tưởng chính trị mà thực tiển của tàiliệu học tập- Trình bày phải đảm bảo tính tuần tự, logic , phải rõ ràng, dể hiểu với lời nới gọngàng trong sáng giàu tính hình tượng, súc tích chuẩn xác.- Giáo viên trình bày phải thu hút và duy trì sự chú ý gây được hứng thú hướng dẫntư duy của học sinh thông qua giọng nói tốc dộ âm lượng thay dổi thích hợp qua cácmẫu chuyện vui đúng mức, qua cách đặt và giải quyết vấn đề, kết hợp lời nói vàđiệu bộ nét mặt, biết đưa vào lời trích dẫn đúng chỗ đúng lúc.Thông qua việc trìnhbày giúp học sinh biết cách ghi chép.5.3.2.4. Đánh giá phương pháp. Ưu điểm. - Truyền đạt được những kiến thức tương đối khó,phức tạp chứa đựng nhiều thông tinmà học sinh không thể tự mình tìm hiểu được. - Do nội dung được trình bày logic, lập luận chặt chẽ hoặc hùng biện giúp phát triển tưduy khoa học và ngôn ngữ ở học sinh.Học sinh sẽ được cách trình bày một vấn đề, một kỹnăng rất quan trọng trong cuộc sống - Lời giảng của giáo viên có thể gây cảm xúc và ấn tượng mạnh mẽ, có tác dụng rấtlớn trong việc giáo dục tình cảm, thái độ ở học sinh - Tiết kiệm thời gian.Có thể truyền đạt một lượng thông tin lớn cho nhiều học sinhtrong một thời gian hạn chế Nhược điểm. - Làm cho học sinh bị thụ động,Chỉ sử dụng chủ yếu thính giác cùng với tư fuy táihiện do đó dễ làm cho họ chóng mệt mỏi và nhàm chán - Không giúp học sinh phát triển ngôn ngữ nói và kỹ năng trình bày ý kiến. - Không cho phép giáo viên chú ý đầy đủ đến trình độ nhận thức cũng như không thểkiểm tra đầy đủ sự lĩnh hội tri thức của từng học sinh.

Video liên quan