Phân tích bài câu cá mùa thu lớp 11

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến gồm 3 dàn ý cụ thể kèm theo 12 bài văn mẫu được Học Điện Tử Cơ Bản tổng hợp từ các bài văn hay nhất của các bạn học trò giỏi. Với tài liệu này sẽ giúp các bạn học trò lớp 11 củng cố thêm vốn từ cũng như có nhiều ý nghĩ lúc viết văn.

Phân tích bài câu cá mùa thu lớp 11

Phân tích Câu cá mùa thu (Thu Điếu) của Nguyễn Khuyến để thấy được vẻ đẹp của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Bài thơ Câu cá mùa thu gợi 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê xưa, biểu hiện mối tình thu đẹp nhưng lẻ loi, buồn của 1 nhà Nho. Vậy sau đây là 12 bài văn mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mời các bạn cùng theo dõi trong bài viết dưới đây.

Dàn ý cụ thể số 1

I. Mở bài

  • Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: 1 tác giả chịu tác động đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau lúc thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm trình bày sự hòa hợp với tự nhiên thanh tịnh
  • Bài thơ Câu cá mùa thu: Là 1 bài thơ trong chùm thơ thu 3 bài được sáng tác chỉ mất khoảng tác giả ở ẩn

II. Thân bài

1. Hai câu đề

– Mùa thu gợi ra với 2 hình ảnh vừa đối lập vừa hợp lý hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” nhỏ tẻo teo;

  • Màu sắc “trong vắt”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
  • Hình ảnh: Chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo ⇒ rất bé
  • Cách gieo vần “eo”: giàu sức bộc lộ

– Cũng từ ao thu đó tác giả nhìn ra mặt ao và ko gian quanh ao ⇒ đặc biệt của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

⇒ biểu lộ rung cảm của tâm hồn nhà thơ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ lùng

2. Hai câu thực

– Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:

  • Sóng biếc: Gợi hình ảnh mà cùng lúc gợi được cả màu sắc, đấy là sắc xanh dịu nhẹ và mát rượi, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
  • Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc biệt của mùa thu Việt Nam

– Sự đi lại:

  • hơi gợn tí ⇒ đi lại rất nhẹ ⇒sự chuyên chú quan sát của tác giả
  • “khẽ đưa vèo” ⇒ đi lại rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận thâm thúy và tinh tế

⇒ Nét rực rỡ rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đấy chính là “cái hồn dân dã”

3. Hai câu luận

– Cảnh thu đẹp 1 vẻ bình dị mà yên ắng và đượm buồn:

  • Không gian của bức tranh nhận được mở mang cả về chiều cao và chiều sâu
  • Tầng mây lửng lơ: gợi cảm giác thanh nhẹ, không xa lạ thân cận, thanh bình, yên ắng.
  • Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp diễn sử dụng, mà chẳng hề là màu xanh dịu nhẹ, mát rượi nhưng xanh thuần 1 màu trên diện rộng ⇒ đặc biệt của mùa thu.
  • Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc vòng vèo”: hình ảnh không xa lạ
  • Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh tĩnh, êm ả, yên ắng

⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở mang lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, ko gian yên ắng và thanh tĩnh

4. Hai cấu kết

– Xuất hiện ảnh ảnh con người câu cá trong ko gian thu yên ắng với tư thế “Tựa gối buông cần”:

  • “ Buông”: Thả ra (buông lỏng) đi câu để tiêu khiển, ngắm cảnh mùa thu
  • “Lâu chẳng được” : Không câu được cá

⇒ Đằng sau đấy là tư thế thoải mái thư thả ngắm cảnh thu, câu cá như 1 niềm vui làm thoải mái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với tự nhiên của con người

– Toàn bài thơ mang vẻ yên ắng tới câu cuối mới hiện ra tiếng động:

+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chuyên chú quan sát của thi sĩ trong ko gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”

⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong ko gian bao la càng làm tăng vẻ tĩnh vắng , “cái tĩnh hình thành từ 1 cái động rất bé”

⇒ Nói câu cá mà thực ra chẳng hề bàn chuyện câu cá, sự yên ắng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi lẻ loi, khúc mắc trong tâm hồn thi sĩ, đấy là hàn ôn đầy âu sầu trước cảnh ngộ quốc gia đầy đau thương

5. Nghệ thuật

  • Văn pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh cảnh quan
  • Áp dụng tài tình nghệ thuật đối.
  • Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công
  • Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình

III. Kết bài

  • Khẳng định lại những nét điển hình về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
  • Bài thơ mang lại cho bạn đọc những cảm nhận sâu lắng về 1 tâm hồn yêu nước thầm kín nhưng khẩn thiết

Dàn ý cụ thể số 2

a. Mở bài

Giới thiệu bài thơ Câu cá mùa thu và tác giả

b. Thân bài

*Hai câu đề

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

  • Ao thu là 1 hình ảnh rất thân cận với cuộc sống thường nhật, cộng với thời tiết se lạnh và dòng nước trong vắt
  • Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được trình bày qua 2 câu thơ

* Hai câu thực “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

  • Hình ảnh sóng biếc gợn tí và hình ảnh lá vàng, cảm giác như những hình ảnh rất bé nhỏ
  • Không gian yên ắng của mùa nhận được tăng dần so với câu trước
  • Tâm hồn rất mẫn cảm, tinh tế của tác giả

*Hai câu luận

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”.

  • Sự êm ả nhẹ nhõm
  • Cảm giác mung lung kì ảo
  • Cảnh buồn, u tịch, lòng người trĩu nặng, lẩn quẩn ko lối thoát

* Hai cấu kết “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

  • 1 bức tranh tự nhiên hài hòa
  • Ném mọi tâm tình ko vấn vương đến thế, thói thường

c. Kết bài

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Câu cá mùa thu

Dàn ý cụ thể số 3

a. Mở bài

Trước kia, trong văn học Việt Nam đôi lúc cũng có tác phẩm viêt về nông thôn, mà hình ảnh về cảnh quê khái quát còn mờ nhạt. Phcửa ải tới Nguyễn Khuyến, lần trước tiên cảnh nông thôn mới thực thụ đi vào văn chương. Nguyễn Khuyến viết nhiều về tự nhiên với ngòi bút ấm áp bình dị, có lúc còn gửi gắm chút hàn ôn. 1 trong những bài thơ trình bày nội dung trên là bài Câu cá mùa thu.

b. Thân bài

Từ tên bài thơ tới mọi cụ thể mô tả đều trực tiếp hay gián tiếp làm rõ 2 từ Thu điếu (Câu cá mùa thu). Hai câu đề cho thấy cảnh được báo hiệu từ tên gọi tác phẩm: có ao, có thu (hợp lại thành ao thu), có nước trong vắt, có chiếc thuyền câu bé. Đúng là bài thơ trò chuyện Câu cá mùa thu, tuy câu cá chỉ là bề ngoài vẻ ngoài. Các câu thơ tiếp theo đều được diễn ra xoay bao quanh “trục” này, dù người đọc có cảm nghĩ tác giả nhấn mạnh vào nhân tố thu hơn nhân tố câu cá. Cảnh thu đã được nhìn từ con mắt của 1 người ngồi câu trên ao.

* Sắc thái riêng của mùa thu nông thôn Bắc Bộ

– Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao nước trong tưởng có thể nhìn thấu đáy (trong vắt), sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi trội màu xanh ngắt (xanh ở đây cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh) thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như có như ko (cái động của liêng cá đớp bỗng càng làm nổi trội cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh.

– Đây là cảnh thu đặc biệt của đồng bằng Bắc Bộ, ở xứ đồng chiêm trũng. Các cụ thể mô tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như ko vướng chút ước lệ nào, có thể gợi những xúc cảm sâu lắng về quê hương.

– Dưới ngòi bút của tác giả, tất cả các sự vật được nhắc đến đều xứng hợp với nhau: ao thu bé – thuyền câu nhỏ, gió nhẹ – sóng gợn tí, trời xanh – nước trong, khách vắng teo – người ngồi câu trầm mặc im lặng, đặc trưng là các mảng màu xanh của nước, của tre trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời.

– Từ láy trong thơ không những tạo ra vẻ thuần Nôm cho tác phẩm nhưng còn có công dụng làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa mô phỏng dáng dấp, động thái của sự vật, khiến cho sự vật hiện lên chân thật, vừa trình bày được chuyển đổi tinh xảo trong xúc cảm chủ quan của người thông minh: lạnh lẽo, tẻo teo, lửng lơ. Lạnh lẽo ko hẳn nói về cái lạnh của nước nhưng nói về ko khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm cảnh u uất của thi sĩ. Tẻo teo có thể được giảng giải là rất bé (chiếc thuyền câu bé), âm eo được lặp lại gợi liên tưởng về 1 “nhân vật” đang mỗi khi 1 thu hẹp diện tích, thích hợp với cái nhìn của thi sĩ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, ko mở ra quá rộng khiến cho ko khí suy tư bị loãng đi. Lửng lơ vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại lưng chừng giữa tầng ko, vừa gợi hiện trạng mơ mòng của thi sĩ.

* Không gian trong thu điếu

– Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp mà yên ắng và đượm buồn. Không gian Thu điếu là 1 ko gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Các đi lại rất nhẹ, rất khẽ ko đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lửng lơ, lá khẽ đưa.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

– Cá đâu đớp động dưới chân bèo chẳng thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp (tức là ko đớp). Từ đâu trong câu này là đại từ phiếm chỉ chứ chẳng hề là từ hư phủ định. 1 tiếng động độc nhất – tiếng cá đớp mồi càng làm ngày càng tăng sự tĩnh lặng, u tịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ 1 cái “động” rất bé. Đây là nghệ thuật lấy “động” nói “tĩnh”, 1 thủ pháp nghệ thuật gợi tả không xa lạ của thơ cổ đại.

* Tâm sự thi sĩ

– Nói câu cá mà thực ra chẳng hề để mắt tới vào việc câu cá. Nói câu cá mà thực ra là đón chờ trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của thi sĩ yên tĩnh, tĩnh mịch. Yên ắng trong sự cảm nhận độ trong vắt của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khe khẽ của lá. Đặc trưng sự yên ắng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên 1 cách thâm thúy từ tiếng động độc nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất bé ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm tới thế, vì tâm trạng đang trong sự yên ắng tuyệt đối. Sự yên ắng mang lại sự cảm nhận về 1 nỗi lẻ loi, u uất trong lòng thi sĩ.

– Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đấy là 1 con người bình dị, gắn bó thâm thúy với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn sơ của chốn thôn quê yên bình, hướng về sự thanh bạch cao quý và luôn có ý thức bổn phận đối với cuộc đời.

c. Kết bài

– Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao và niềm ưu phiền của đối tượng trữ tình trong bài.

– Thđó được sự tinh tế, tài ba trong cách mô tả tự nhiên và biểu hiện tâm cảnh của thi sĩ.

Phân tích bài câu cá mùa thu lớp 11

Nguyễn Khuyến là thi sĩ lừng danh với cá tính thơ đặc biệt, biệt lập. 1 trong những bài thơ điển hình cho cá tính thơ của ông chính là bài Câu cá mùa thu.

Bắt đầu bài thơ tác giả mô tả quang cảnh tự nhiên thân cận với làng quê:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”

“Ao” là hình ảnh thân cận, quen thuộc với người dân cày. Thời tiết chuyển sang mùa thu, ngay cả cái ao cũng mang hơi hám, âm hưởng mùa thu với làn nước mát rượi và trong vắt. Trong quang cảnh mùa thu với ao nước trong xanh, làn nước mát rượi đó là hình ảnh chiếc thuyền câu của người nhà thơ bé nhỏ, lọt thỏm trong ko gian bao la trở thành “nhỏ tẻo teo”. Khung cảnh tự nhiên, bức tranh mùa thu trở thành xinh tươi và mang màu sắc biệt lập ko lẫn với bất kỳ nơi nào.

Bức tranh mùa thu ở làng quê được mô tả ở những cảnh vật quen thuộc khác:

“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Làn gió thổi lăm tăm sóng trên mặt nước “hơi gợn tí” khiến cho bức tranh tuy động mà vẫn tĩnh. Tiếng sóng nước bé nhỏ ti li gợn gợn gợi cảm giác yên bình. Hình ảnh chiếc lá vàng rụng khỏi cây và rơi xuống đất được mô tả sinh động “khẽ đưa vèo” vừa gợi sự mong manh yếu ớt của chiếc lá bị gió cuốn bay vừa gợi âm thanh mùa thu – âm thanh của những chiếc lá rơi.

Bầu trời mùa thu mang vẻ đẹp yên bình:

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”

Bầu trời mùa thu có những đám mây lửng lơ trên ko trung tầng phân khúc lớp mà vẫn để lộ ra khoảng trời trong xanh tạo ra bầu ko khí dịu mát. Thêm vào đấy là khung cảnh bao quanh nhà thơ với con ngõ chạy vòng vèo mà tĩnh mịch ko 1 bóng người khiến cho ko gian trở thành cực kỳ yên tĩnh.

Trong bức tranh mùa ghi âm bình đấy là hình ảnh người nhà thơ thung dung, tự do tự tại:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Trong bức tranh tự nhiên mùa thu đó là hình ảnh người nhà thơ khoan thai buông chiếc cần câu để câu cá nhưng ko chút vướng bận mà đợi mãi ko có con cá nào cắn câu. Hình ảnh đàn cá “đớp động dưới chân bèo” tạo cảm giác thú vị. Người nhà thơ có thể nhận ra con cá, nghe thấy tiếng động của nó mà chẳng thể bắt được chúng. Bức tranh mùa thu với những cảnh vật không xa lạ của làng quê Việt Nam tuy giản dị mà cực kỳ tươi đẹp. Trong bức tranh tự nhiên đấy là hình ảnh con người thung dung, khoan thai hưởng thụ cuộc sống.

Vần “eo” thường được người ta cho rằng mang ý nghĩa ko tốt và rủi ro mắn mà nhờ sự thông minh của mình, Nguyễn Khuyến đã đem đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ, sự tươi vui lúc gieo vần này và tạo ra 1 bài thơ hay, lạ mắt. Nhiều 5 tháng qua đi mà bài thơ vẫn giữ nguyên lành trị giá lúc đầu của nó và để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng nhiều lứa tuổi độc giả.

Nhắc tới mùa thu, thường gợi cho ta nghĩ tới vẻ đẹp dịu dàng, yên ả nhưng bàng bạc 1 nỗi sầu khắc khoải, nhưng man mác 1 nỗi niềm khẩn thiết. Cho nên, thu đi vào những trang thơ của người nghệ sĩ vừa đẹp cảnh lại vừa đẹp tình. Trong kho tàng văn thơ trung đại Việt Nam, đã nói đến mùa thu thì chẳng thể ngoại trừ tới chùm thơ thu của “ông hoàng mùa thu” – Nguyễn Khuyến. Qua bức tranh “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) , cùng tới với cái tình của Nguyễn- 1 bầu hàn ôn nói mấy cũng ko vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể bắt vào thơ.

Chỉ bằng 1 vài đường nét, 1 vài sắc màu tô điểm, ta thấy được qua bức tranh “câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến tràn đầy mênh mông những cái tình của thi nhân. Nhưng có nhẽ đầu tiên, “tình” ở đây chính là cái tình gắn bó, cái tình quyện hòa, cái tình khẩn thiết với tự nhiên nước non. Đọc “Thu điếu”, ta như được đắm mình vào 1 ko gian thu rất riêng của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Nếu qua “Thu hứng”, Đỗ Phủ vẽ ra 1 bức tranh mùa thu đặc biệt của miền Bắc Trung Quốc, liên kết giữa cái xơ xác, tiêu điều với cái dữ dội, động dao; nếu qua “Thu vịnh”, mùa nhận được Nguyễn Khuyến đón chờ từ ko gian khoáng đãng bát ngát với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của ko gian, thì tới “thu điếu” – mùa nhận được hình thành bằng tất cả những thi liệu “đượm chất thu” và rất mực cổ đại.

Hình ảnh “thu thủy”- làn nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- bầu trời thu, liên kết cùng “thu diệp” – lá thu và hình ảnh “ngư ông” – người câu cá. Ao thu – vốn là 1 ko gian chẳng còn lạ lẫm của vùng quê Bắc Bộ. Trung tâm của bức tranh thu là 1 chiếc thuyền câu “nhỏ tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao bé đó, ánh mắt của thi nhân bao quát ra bao quanh và cảm nhận biết nước ao thu lạnh lẽo và trong vắt tới hết độ.

Rồi mùa thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”, xa hơn 1 chút là hình ảnh lá vàng “khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn là khoảng ko gian vời vợi của bầu trời “xanh ngắt”, men theo lối đi của chiếc ao bé là ngõ trúc “vòng vèo” uốn lượn… và tới , tầm mắt của thi nhân lại trở lại với chiếc thuyền câu bởi âm thanh của tiếng cá “đớp động” dưới chân bèo. Khung cảnh hiện lên đẹp tựa tiên giới, mà lại là vẻ đẹp cực kỳ giản dị quen thuộc, gắn liền với đồng đất quê hương.

Xuân Diệu từng nhận xét: “…Thu điếu (Câu cá mùa thu) là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của thi nhân ko chỉ gây ấn tượng ở màu sắc, chẳng những đẹp trong từng nét họa nhưng còn vang động những thanh âm rất riêng. Ao thu xuất hiện qua 2 tính từ: “lạnh lẽo” và “trong vắt” – ao lạnh, nước yên và trong tới tận đáy. Ở đây, cái trong đã song hành cùng cái tĩnh: càng trong lại càng tĩnh, càng tĩnh lại càng trong.

Còn bầu trời, Nguyễn chọn lọc tô điểm màu “xanh ngắt” – là sợi chỉ xuyên suốt kết nối chùm thơ thu 3 bài của thi nhân, cũng cho nên nhưng biến thành gam màu đặc biệt cho hồn thơ thu Nguyễn Khuyến. “Xanh ngắt” là xanh trong tuyệt đối ko chút pha trộn, ko chút gợn tạp. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón chờ cái thần thái rất riêng của bầu trời thu như thế.

Còn với “gió thu” tác giả ko mô tả trực tiếp nhưng sử dụng văn pháp cổ đại “vẽ mây nảy trăng”. Tả sóng nước “gợn tí”, tả lá vàng “khẽ đưa vèo” chính là thi sĩ đang họa nên gió. Với hình ảnh “ngõ trúc vòng vèo – vắng teo” ko 1 bóng người qua gợi nên 1 ko gian thu yên tĩnh tới yên ả. Câu thơ cuối đã được tác giả khôn khéo lồng vào văn pháp thi ca cổ đại “lấy động đánh tĩnh”.

Phcửa ải là 1 ko gian yên ắng tuyệt đối thì cả con người với tự nhiên mới có thể giật thột trước âm thanh rất bé – “cá đớp động”. Cái động của tiếng cá đớp càng làm nổi trội cái tĩnh chung của cảnh. Bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh tĩnh, quạnh vắng, chỉ có độc nhất thi nhân đang trong vai của 1 ngư ông đối diện với tự nhiên nhưng như đang chìm vào cõi suy tư trầm mặc. Không gian yên ắng, vắng người, vắng tiếng, cảnh hẹp và thu bé trong khuôn ao thôn ấp.

Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện tinh tế giữa vô vàn cung bậc của các “điệu xanh” (Xuân Diệu): xanh ao, xanh sóng, xanh bèo, xanh bờ, xanh trời và xanh trúc. Rồi điểm xuyết giữa những sắc xanh đó, người ta thấy nổi trội 1 màu “lá vàng” đã hình thành sự hòa sắc nhẹ nhõm cho cả bức tranh. “Lá vàng” thường gợi sự tàn phai, tiêu điều, vốn là tượng trưng cho mùa thu phương Bắc.

Nguyễn Khuyến gợi chứ ko tả, chỉ với 3 từ “khẽ đưa vèo” nhưng gợi được cả cái thanh sơ nơi màu vàng của chiếc lá trên nền trời xanh đang chao nghiêng, trên sóng biếc gợn nhẹ. Đây chính là giây phút bất thần nhưng đầy chất thơ của tạo vật cho thấy đôi mắt với ánh nhìn chủ động của người nghệ sĩ. Tác giả thử đang nghiêng lòng mình, lắng tai mọi tàn phai trong sự đi lại khẽ khàng của cảnh.

Cả bức tranh thu là sự hòa điệu về đường nét đi lại mảnh khảnh, nhẹ nhõm tới tinh tế phê chuẩn chuỗi các động từ: “khơi gợn tí”, “lửng lơ”, “khẽ đưa vèo”… Ao thu bé nên thuyền câu nhỏ, trời xanh ngắt nên nước thêm trong, khách vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm mặc, im lặng. Bức tranh tự nhiên được hòa sắc vào nét, bỗng trở thành hài hòa xứng hợp, dễ nhìn tới lạ kì.

Như vậy, để làm sống dậy hồn của cảnh trên trang viết, Nguyễn Khuyến đã sử dụng 1 hệ thống ngôn từ cực kỳ tài ba – thứ tiếng nói gợi cảm, giàu giai điệu và được biến hóa qua nhiều sắc thái bất thần. Trước hết là hệ thống các từ láy vừa gợi hình, vừa gợi cảm, những tính từ chỉ chừng độ được liên kết vô cùng tinh tế: “lạnh lẽo, trong vắt, nhỏ tẻo teo, gợn tí, vèo, lửng lơ, xanh ngắt, vòng vèo, vắng teo”.

Việc chọn lọc vần “eo” – vốn được coi là vần chết trong thi ca, dưới ngòi bút tài tình của tác giả đã thành công bất thần, gợi cho ta cảm giác ko gian mỗi khi 1 thu hẹp, bức tranh càng gợi cảm giác dễ nhìn, bé bỏng rất thích hợp với ý kiến thẩm mĩ truyền thống của người Việt xưa. Cảnh đạm bạc, đơn sơ, ko lộng lẫy mà vẫn vô cùng gợi cảm; cảnh đẹp mà lại đượm buồn.

Nguyễn Du đã từng đúc kết 1 qui luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, bức tranh thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm hàn ôn u hoài của tác giả trước thời cục thay đổi. Bài thơ, có thể nói, đã được tạo nên từ sự cộng hưởng giữa nỗi sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm lẻ loi ẩn sâu trong lòng người.

Với đầu đề: “Câu cá mùa thu” mà đối tượng trữ tình lại chẳng mấy nhọc lòng tới chuyện câu cá, nhưng nói “câu cá” thực ra là để đón chờ cảnh thu vào lòng nhưng gửi gắm hàn ôn. Bức tranh thu yên ắng hay chính là 1 cõi lòng yên ắng tuyệt đối. Cái se lạnh của cảnh thu đang thấm vào tâm hồn của thi sĩ hay cái lạnh của lòng thi nhân đang tỏa lan ra cảnh vật?

Ở Nguyễn Khuyến, ta thấy 1 nỗi buồn u hoài thăm thẳm lẻ loi của 1 nhà nho lánh đời thoát trần, mà trong lòng vẫn bồn chồn nỗi niềm dân nước. Cũng giống như Nguyễn Trãi 5 xưa về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Khuyến nhàn thân mà ko nhàn tâm. Khi ông đạt tới đỉnh cao sự nghiệp thì cũng là khi dân tộc bước vào 1 quá trình lịch sử đầy bi thảm.

Chế độ phong kiến bấy giờ biến thành 1 gánh nặng của lịch sử, ko còn đủ bản lĩnh để đưa quốc gia thoát khỏi họa ngoại xâm và nô dịch. Hệ tư tưởng Nho giáo nhưng thi sĩ từng tôn thờ đã trở thành lỗi thời, lạc hậu. Nguyễn Khuyến tinh thần thâm thúy sự bất lực của bản thân. Ông luôn cảm thấy băn khoăn, bứt rứt vì chẳng thể làm gì hơn cho quốc gia, cho quần chúng.

Điều độc nhất ông có thể làm là bất hiệp tác với địch thủ, lui về quê ở ẩn, giữ giàng tiết tháo tư cách, quên đi những dằn vặt sự đời mà muốn quên nhưng không thể quên được. Tại nơi thôn dã thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn đau đáu 1 nỗi quan hoài túc trực – ông là 1 con người nặng tình với quốc gia, với quê hương. Hai câu thơ cuối kết lại mạch xúc cảm, gợi ra lòng người thanh thản với tư thế thu mình ngồi tới lặng thầm của 1 ngư ông “lánh đục về trong”

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

Nhà thơ chuyên chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu, cho tới lúc nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mới giật thột sực tỉnh. Vừa trở về với thực tại, thi sĩ đã đưa mình vào hiện trạng lơ lửng… 1 chữ “đâu” nhưng chẳng thể phân biệt được đâu là hư, đâu mới là thực. “Đâu” là đâu có hay “đâu” là đâu đấy? Bức tranh thu liệu thực có tiếng cá đớp động hay ko? Người đọc ko biết, thi nhân cũng ko tài nào lí giải nổi. Người ngồi câu nhưng như hóa thạch giữa ko gian, thời kì, đi câu nhưng cái chí lại ko đặt ở việc đi câu.

Mỗi nhà thơ làm thơ, đầu tiên là phải thổi được cái hồn mình vào đấy, phải biết biến hóa những con chữ thô cứng chứa chan thi vị và “nhảy múa” trong xúc cảm. “Đọc 1 câu thơ hay nghĩa là ta gặp mặt 1 tâm hồn con người” (A-tô-ni Phơ-răng). Qua “Thu điếu”, ta thấy được ở Nguyễn Khuyến 1 tâm hồn gắn bó với tự nhiên, 1 tấm lòng yêu nước thuần phác, thầm kín.

Ấy phải là cái nhìn đầy tinh tế của bậc thầy thơ Nôm trung đại mới có thể họa nên bức tranh đẹp nhường đó. Nỗi buồn trong cảnh ko bị đẩy đến chừng độ u uẩn nhưng lan tỏa nhẹ nhõm ra bao quanh, vừa đủ để phục vụ 1 khoảng lặng trong tâm hồn. Chính nỗi u hoài đó của tác giả mới làm nên bịn rịn trong tâm não người đọc, làm nên nỗi day dứt với đời và tạo thành trị giá trường tồn, nhựa sống lâu bền cho tác phẩm.

Với “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến đã hình thành cho mình 1 chỗ đứng quan trọng trong nền thơ ca trung đại Việt Nam khái quát và trong những thi phẩm chọn lọc đề tài mùa thu nói riêng. Đong đầy trong từng vần thơ con chữ, ta thấy được mênh mông cái tình của thi nhân. Nguyễn Khuyến, hơn 1 nhà họa sĩ là 1 nhà nhà thơ. Thơ ông hơn 1 bức tranh tả cảnh là những ngôn từ gợi tình.

Nguyễn Khuyến vừa là thi sĩ trào lộng vừa là thi sĩ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông số đông là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên 2 lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm 3 bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả 3 thi phẩm đều được viết bằng từ chương, văn pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn chương trung đại, mà vẫn mang đậm dấu ấn riêng của 1 trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật tuyệt vời.

Cảnh vật được đón chờ từ gần tới cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của 1 người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn đến ngõ vắng rồi lại trở người về với ao thu, thi sĩ đã quan sát ko gian, cảnh sắc thu theo người lương thật sinh động.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo.”

Nguyễn Khuyến đã chọn những cụ thể rất điển hình cho mùa thu xứ Bắc (ao thu, gió thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ mùa thu mới hiện ra. Nguyễn Khuyến đã ghi thu được 2 đặc biệt của ao thu là lạnh lẽo và trong vắt – ao lạnh nước yên, trong tới tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nhắc đến ao là gợi tới 1 cái gì rất thân cận, thân quen, tâm hồn Nguyễn Khuyến là thế: thân tình, bình dị, thật tình với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng là hình không xa lạ trong thơ Nguyễn Khuyến. Bầu trời thu xanh ngắt lâu nay vẫn là tượng trưng đẹp của mùa thu. Những án mây ko trôi nổi bay khắp bầu trời nhưng lửng lơ. Xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến là xanh trong, thuần khiết tới tuyệt đối, chẳng phải pha lẫn, chẳng phải gợn tạp.

Đường nét đi lại nhẹ nhõm, mảnh khảnh, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lửng lơ, đường bao thon thả của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật toát lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao bé – thuyền nhỏ; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm mặc yên ắng. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu đến cũng đã bắt được những nét tiêu biểu đấy của sông nước ở vùng quê, lúc trời đã khởi đầu bước vào những ngày lạnh buốt:

Những luồng run rẩy rung chuyển lá…
… Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.

Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả các từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những tính từ và các từ chỉ chừng độ như lạnh lẽo, trong vắt, nhỏ tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lửng lơ, xanh ngắt, vắng teo, vòng vèo việc chọn lọc vần eo đã gợi nên cảm nhận mỗi khi 1 thu hẹp diện tích

Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức tranh cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu của người trong cảnh. Phcửa ải chăng đây là tâm cảnh thời thế của thi sĩ? Thời thế chỉnh sửa nhanh quá! Thoáng chốc tổ quốc đã mất trong tay địch thủ. Thoáng chốc thời cục đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lửng lơ và sắc trời mở ra ko gian cho bài thơ phải chăng cũng cùng lúc ẩn chứa những nỗi niềm hàn ôn liệu có chút gì lửng lơ về thời cục? Chọn tuyến đường ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ lấy cái cao khiết để như tượng trưng đăm đắm của bầu trời kia phải chăng đã thật đúng, hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói đắng cay của 1 vị đại khoa.

Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo phải chăng là hàn ôn lẻ loi, lẻ loi? Nguyễn Khuyến có lần tự thấy mình như 1 cành cô trúc đấy thôi! Độc thân và lẻ loi, vắng teo trước thời cục rộn rã. Ấy là hàn ôn của 1 nhà nho lánh đời thoát trần song vẫn ko nguôi nghĩ về quốc gia, quần chúng, về sự tuyệt vọng, bất lực của bản thân? Nhàn thân song ko nhàn tâm, Nguyễn Khuyến chẳng thể thung dung đi câu như 1 ẩn sĩ đích thực.

Câu thơ cuối, với tiếng động độc nhất: tiếng cá đớp động. Phcửa ải chăng đấy là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến trò chuyện câu cá mà thực ra tác giả ko để mắt tới vào việc câu cá. Nói câu cá mà thật ra là để đón chờ trời thu vào lòng, gửi gắm hàn ôn. Cõi lòng yên ắng để cảm nhận độ trong vắt của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc trưng cõi lòng yên ắng được gợi lên thâm thúy từ 1 tiếng động bé: tiếng cá đớp mồi. Ấy là sự yên ắng tuyệt đối của tâm trạng, cõi lòng của thi nhân cũng yên ắng, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu.

Bài thơ Câu cá mùa thu trình bày sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, cùng lúc cho thấy tình yêu tự nhiên, quốc gia, tâm cảnh thời thế về tài thơ Nôm của tác giả.

Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm 3 bài nức tiếng nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê xưa, biểu hiện mối tình thu đẹp nhưng lẻ loi, buồn của 1 nhà Nho nặng tình với quê hương quốc gia. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời kì sau lúc ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)

Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt – 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo mở ra 1 ko gian nghệ thuật, 1 cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong vắt có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm ko gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa nhưng là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo tương tự. Trên mặt ao thu đã có 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo từ bao giờ. 1 chiếc gợi tả sự lẻ loi của thuyền câu. Nhỏ tẻo teo tức là rất bé bỏng; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong vắt – nhỏ tẻo teo). Ấy là 1 nét thu đẹp và êm ả.

Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả ko gian 2 chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ khiến cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăm tăm từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi trội 1 nét thu, tô đậm cái nhận ra và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăm tăm của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 nhân tự nhưng sau này nhà thơ Tản Đà vừa bái phục, vừa tâm đắc. Ông giãi bày 1 đời thơ mới có được 1 câu hợp ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).

Bức tranh nhận được mở mang dần ra qua 2 câu thơ:

Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo.

Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, rộng lớn. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lửng lơ nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm ả, yên ắng và nhẹ nhõm. Không 1 bóng người lại qua trên tuyến đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Vắng teo tức là cực kỳ tĩnh mịch ko 1 tiếng động bé nào, cũng gợi tả sự lẻ loi, trống trải. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ khi nào cũng gợi tả 1 tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc đó
Thuyền người nào khách đợi bến đâu đây?

(Nhớ núi Đọi)

Ngõ trúc và tầng mây cũng là 1 nét thu đẹp và quen thuộc của làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ mòng đắm chìm vào cảnh vật.

Tới 2 cấu kết thì bức tranh thu mới hiện ra 1 nhân vật khác:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Thu điếu tức là mùa thu câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi tới phần kết mới hiện ra người câu cá. 1 tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. 1 sự đợi chờ: lâu chẳng được. 1 cái chợt tỉnh lúc mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về 1 Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy ngàn 5 về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đấy là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh đó hòa quyện với 1 tiếng trên ko ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong 1 tâm cảnh lẻ loi và lặng thầm buồn. 1 cuộc đời thanh sạch, 1 tâm hồn thanh cao đáng trọng.

Xuân Diệu đã hết lời ngợi ca cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có 1 màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm ả, yên ắng nhưng man mác buồn. 1 tâm thế nhàn hạ và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu khẩn thiết. Mỗi nét thu là 1 sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiện, vần thơ: veo – teo – tèo – teo – bèo, phép đối hình thành sự hài hòa tương hợp, điệu thơ nhẹ nhõm bâng khuâng cho thấy 1 văn pháp nghệ thuật cực kỳ điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là 1 bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ 3 bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy 1 tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu”, thi sĩ Xuân Diệu đã khẳng định là “tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình rực rỡ: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu tự nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương khẩn thiết.

“Thu điếu” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tiếng nói tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh xắn của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc hoàn hảo dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong vắt” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở thành”lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên nhấp nhoáng 1 chiếc thuyền câu rất bé bỏng -“nhỏ tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, quen thuộc, dễ thương của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có rất nhiều ao do đó ao mập, ao bé thì thuyền câu cũng theo đấy nhưng “nhỏ tẻo teo”:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”.

Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong vắt”,”nhỏ tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

Màu “biếc” của sóng hòa hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ nhưng lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, vận tốc “vèo” của lá bay tương ứng với chừng độ “tí” của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói 1 đời thơ của mình hoạ chăng mới có được 1 câu thơ hợp ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”, “Vèo trông lá rụng đầy sân”.

Hai câu luận mở mang ko gian mô tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với những tầng mây “lửng lơ” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận mặt sắc trời thu là “xanh ngắt”:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

(Thu vịnh)

“Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt”.

(Thu ẩm)

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt”.

(Thu điếu)

“Xanh ngắt” là xanh nhưng có chiều sâu. Trời thu ko mây (mây xám), nhưng xanh ngắt 1 màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của ko gian, cái nhìn vời vợi của thi sĩ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về 4 phía làng quê. Nghe đâu người dân quê đã ra đồng hết. Thôn xóm tĩnh mịch, vắng teo. Mọi tuyến đường vòng vèo, tun hút, ko 1 bóng người qua lại:

“Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”.

Cảnh vật êm ả, thoáng 1 nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” tới “chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”, từ “sóng biếc” tới “lá vàng”, từ”tầng mây lửng lơ tới “ngõ trúc vòng vèo” hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc thoáng chút bâng khuâng, man mác, mà rất thân cận, thân thiện với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh tự nhiên của mùa thu quê hương sao dễ thương thế!

Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là ở 2 cấu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá cũng là 1 tâm thế nhàn của thi sĩ đã thoát vòng lợi danh. Cái âm thanh”cá đâu đớp động”, nhất là từ “đâu” gợi lên sự mơ hồ, xa rời và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là thi sĩ, 1 ông quan mập triều Nguyễn, yêu nước thương dân mà bất lực trước thời cục, ko cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên 1 nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá mà tâm hồn thi sĩ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại lúc”Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm ả, tĩnh mịch như chính nỗi lòng của thi sĩ vậy – buồn lẻ loi và trống trải.

Âm thanh tiếng cá”đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi trội quang cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như xoành xoạch vấn vít với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như 1 bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời xoa dịu ở tự nhiên, ở sắc “vàng” của lá thu, ở màu”xanh ngắt” của bầu trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”…

Thật vậy, “Thu điếu” là 1 bài thơ tả cảnh ngụ tình rất rực rỡ của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được mô tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ gần xa, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa”vèo” trong làn gió thu, tiếng cá”đớp động” chân bèo – đấy là tiếng thu dân dã, quen thuộc của đồng quê đã khêu gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương quốc gia.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất lạ mắt. Vần “eo” đi vào bài thơ rất thiên nhiên dễ chịu, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong vắt – nhỏ tẻo teo – đưa vèo – vắng teo – chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”…

Thơ là sự làm mới tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu tự nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê . Ông là thi sĩ của làng cảnh Việt Nam. Đọc”Thu điếu”,”Thu vịnh”,”Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm thôn ấp đồng nội, quốc gia. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương quốc gia. Nguyễn Khuyến là thi sĩ kiệt xuất đã chiếm 1 địa vị vang dội trong nền thơ ca cổ đại Việt Nam.

Trời vào thu với màu sắc thê lương u ám, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ khấc, não nuột. Mùa thu có nhẽ khiến cho người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu hoàn hảo chứa chan trong những trang thơ của bao lứa tuổi. Nhắc tới mùa thu chẳng thể ko nói đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – 1 bức tranh mùa thu nhưng Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”.

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Tiếp xúc với bài thơ điều trước tiên cho ta ấn tượng là mật độ hiện ra vần “eo” trong bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả 7 tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để mắt tới dò la trong tiếng Việt thì ta sẽ phát xuất hiện 1 điều thú vị là vần “eo” trong tiếng nói của ta thường khiến cho ko gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái phạm vi bé nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” đó. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong vắt”. Khoảng trống bao la khiến cho chiếc thuyền câu bé nhỏ lại càng bé nhỏ thêm lúc nó được tác giả thấy rằng “nhỏ tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ tới 2 câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, khiến cho ta thấy hình như tiếng rơi đó nó ko là hiện thực nhưng nó đang diễn ra trong tiềm thức của thi sĩ. Chiếc lá đó của thi sĩ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo giác. Trong cái ảo giác đấy, người đọc và cả tác giả hình như ko kiểm soát kịp nó có thật hay ko nữa. Bức tranh mùa thu tới đây khẽ biến chuyển dưới nét phác họa của thi sĩ.

Qua 2 câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu ko được đặt trong ko gian bao la như ở “Thu vịnh” nhưng nó bị giới hạn lại trong cái khuôn khổ bé nhỏ của “ao thu”. “Ao thu” 2 tiếng đó có vẻ gì đấy là lạ, đặc trưng. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự bé nhỏ khác lạ của nó.

Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như 1 bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy. Nó có 1 cái gì đấy ngồ ngộ, cute và cuốn hút lạ lùng. Nó thu tóm toàn thể ko gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, tĩnh mịch mà lại ẩn chứa 1 nhựa sống mãnh liệt.

Tới đây ko gian được mở mang ra, thi sĩ đã đi lại điểm nhìn từ khoảng gian bé nhỏ của “ao thu” hướng về ko gian bự của bầu trời. Ở ấy thi sĩ bắt gặp:

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt”

Cái động từ “lửng lơ” như gợi cho ta 1 cảm giác về 1 đi lại nhưng ngỡ như là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí 1, bập bềnh trong bầu trời thu xanh ngắt. Cái đi lại của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa thu.

Trở lại câu thơ:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”

Ta thấy nó có 1 cái gì đấy dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” hiện ra khiến cho cảnh vật nó như mơ hồ, khó nhưng nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta 1 dạng hình của sóng. Nó ko ầm ĩ dữ dội như sóng biển nhưng có nó lăm tăm lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái êm ả, u tịch đó.

Có 1 câu châm ngôn cho rằng: ko có 1 vẻ đẹp tuyệt vời nào nhưng ko mang đôi nét kì quái. Cho nên câu thơ:

“Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”

Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt mà bức tranh mùa thu ở đây vẫn có 1 nét đẹp rất nên thơ, bình an và trong trắng. Con người thân thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Thế câu “Tựa gối ôm cần” thật lạ. Nó như thú nhận rằng thi sĩ đang lo nghĩ về 1 việc gì đấy rất dữ dội, nó như đang xâu xé lấy ông. Phcửa ải chăng đấy chính là nỗi buồn thời cục, nỗi buồn nhưng tới cuối đời thi sĩ vẫn ko hả giận được phần nào. Xong xuôi bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật mạnh của cụm từ “đâu đớp động”. Tạo ra 1 nét đối chọi trong bài thơ: Cảnh vật ở trên được mô tả là 1 bức tranh yên ắng tới hoang vắng thì tới cuối bài thơ nó như khởi đầu tiếp thu được nhựa sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng làm cho bài thơ im ắng cực kỳ. Ba tiếng “đâu đớp động” chõi lên 1 chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần “eo”. Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn đạt cái tĩnh khiến cho cảnh vật trong bài thơ càng tĩnh mịch hơn, nỗi buồn như bao trùm cả 1 quang cảnh bao la.

Bài thơ còn mang trong nó 1 sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau khiến cho bài thơ hình thành 1 bức tranh hài hòa hợp lý, có 1 màu sắc rất riêng của Việt Nam. 1 chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu 1 vẻ đẹp mới lạ.

Đọc “Câu cá mùa thu” ta càng yêu thêm tổ quốc xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp tự nhiên của Việt Nam trong bao bất định xô bồ của cuộc đời này. Có cần chăng nhiều khi lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức “Thu điếu” để thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương quốc gia, yêu tiếng Việt trong trắng và giàu đẹp này hơn nữa …

Đi câu là 1 cái thú thanh lịch của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ người nào nhưng nghĩ tới chuyện 5 châu 4 biển, nghĩ tới sự thế điên đảo. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với tự nhiên, suy tư trong hiện trạng thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các cảm quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chuyên chú, cũng bồn chồn, cũng ham mê. Kết quả của cuộc chơi đó là ông đã được 1 bài thơ “Thu điếu” vào loại tuyệt bút của nền văn chương giang sơn:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt.
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với 1 ko gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong 1 cái ao bé với chiếc thuyền câu nhẹ tênh thênh:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo.

Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong vắt” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của thi sĩ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao bé. Ao bé thì thuyền câu cũng bé theo “nhỏ tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy nhưng câu thơ lưu loát thiên nhiên như ko, như ko có chút gì là kĩ xảo cả.

Thuyền câu đã xuất hiện ấy nhưng người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhớ gì cả. Người đi câu còn mê mải với trời nước của mùa thu:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo.

Ao thu ko còn yên ắng nữa nhưng đã nổi sóng với 2 thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và 2 thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng bé vì ao bé, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế tới từng cụ thể bé. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc biệt của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, chuyển di của chiều dọc tương hợp với chuyển di của chiều ngang thật tài tình.

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong vắt. Cái màu vàng của mùa thu nhưng bao lăm thi nhân đã ca ngợi:

Con nai vàng ngờ ngạc
Đạp trên lá vàng khô

(Lưu Trọng Lư)

Vàng rơi! Vàng rơi! Thu bát ngát.

(Bích Khê)

Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.

Nhà thơ mở ko gian lên chiều cao hình thành ko khí hào phóng và ko gian được mở mang nên bức tranh “Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:

Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt,
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo.

Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh rớt nhưng khẩn thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây ko trôi nhưng “lửng lơ” những áng mây trắng “lửng lơ” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là yên bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc vòng vèo”, đường làng vòng vèo quen thuộc với bóng tre trùm mát mẻ. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lưa thưa gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí đó “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét trúc thẳng đối lập với những nét vòng vèo của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng ngắt, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các nhà thơ thích mô tả cảnh thu trong yên ắng, đẹp, mà buồn. Sau Nguyễn Khuyến, thi sĩ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò

(Đây mùa thu đến)

Bài thơ chấm dứt với hình ảnh của người đi câu như 1 nét tự họa:

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, hình như để tương hợp với khung ao bé, với chiếc thuyền “nhỏ tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì 1 cử động đã khiến cho thi sĩ sực tỉnh:

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) mô tả 1 chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình.

Có quan điểm cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đấy hết lời ca ngợi cả 2 ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hòa vào tự nhiên, vào nước non. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã soạn sửa cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, ao bé, chiếc thuyền “nhỏ tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với tự nhiên, tan hòa với nước non. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn nhất trí với người nào đấy là chuyện riêng. Tôi nhất trí với Nguyễn Khuyến.

Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn 1 bài thì đấy là bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là tuyệt bút trong nền thơ cổ đại giang sơn. Bức tranh mùa nhận được mô tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng lạ mắt. vần gieo hiểm hóc nhưng thiên nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ ko còn lép chữ nào. Thật là 1 nghệ sĩ cao thâm. Cái tình của thi sĩ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của thi sĩ đối với quê hương làng cảnh, với tổ quốc quốc gia thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam.

Mùa thu vốn là 1 đề tài không xa lạ trong thơ ca Việt Nam. Thu thường đem đến cho nhà thơ 1 nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nhớ tiếc về 1 cái gì đấy xa xăm, đầy kín đáo. Nghe đâu ko người nào vô tình nhưng ko nhắc đến cảnh thu, tình thu lúc đã là nhà thơ! Tới với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đấy. Cảnh mùa thu trong thơ ông chẳng hề là mùa thu ở bất kỳ miền nào, thời nào, nhưng là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ khi bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong vắt” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phơ phất màu khói nhạt, làn ao óng ánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm si mê lòng bao lứa tuổi! Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, mà ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử mày mò xem thế nào nhưng “Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”?

Ví như ở Thu vịnh, mùa nhận được Nguyễn Khuyến đón chờ từ cái ko gian khoáng đãng, bát ngát, mênh mông, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, thi sĩ ko tả mùa thu ở 1 quang cảnh tự nhiên phổ quát, chẳng hề là trời thu, rừng thu hay hồ thu, nhưng mà chỉ gói gọn trong 1 ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Câu thơ đầu còn đó 2 vần “eo”, câu thơ trình bày sự co lại, đọng lại ko nhúc nhắc, cho ta 1 cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh 1 cách lạ lùng. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, mà thêm 2 từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy bé mà tác giả lại ko bị giới hạn nhưng mở mang ra nhiều chiều, trong cái ko khí se lạnh đấy hình như khiến cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” đó, mọi vật sẽ ko hiện ra, thế nhưng thật bất thần: Khung ao ko trống trải nhưng có “1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”. Có quang cảnh tự nhiên và có vết tích của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm êm. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật dễ nhìn. Câu thơ đọc lên, khiến cho nhân vật mô tả trở thành thân cận và thân tình biết bao! Với 2 câu bắt đầu, thi sĩ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” đem đến cho người đọc 1 nỗi buồn man mác, cảnh vắng ngắt, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Càng khiến cho ko khí trở thành yên ắng hơn, thi sĩ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để mô tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã hiện ra và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu ko còn “lạnh lẽo”, ko còn yên ắng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật hình như đã khởi đầu chỉnh sửa hẳn đi! Cơn “sóng biếc” bé “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như tranh chấp với nhau, mà thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, động dao liệng đi trong ko gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có 1 tâm hồn yêu tự nhiên, yêu cuộc sống thật thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm thu được những âm thanh tinh tế, tưởng dường như chẳng người nào để mắt tới tới như thế! Như trên đã nói: bắt đầu bài thơ, tác giả thử dụng vần “eo” mà tác giả ko bị giới hạn nhưng đã mở mang ko gian theo chiều cao, hình thành sự hào phóng, phổ quát cho cảnh vật:

Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo

Bầu trời thu xanh ngắt lâu nay vẫn là tượng trưng đẹp của mùa thu. Những áng mây ko trôi nổi bay khắp bầu trời nhưng “lửng lơ”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:

Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra ko gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với quang cảnh làng quê không xa lạ cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm vòng vèo… tất cả đều thân yêu và nhuốm màu sắc thôn dã Việt Nam. Chỉ tới với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê yên ắng, yên ả tương tự. Trời sang thu, ko khí lạnh buốt, đường làng cũng vắng ngắt. “Ngõ trúc vòng vèo” cũng “vắng teo” ko bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu đến cũng đã bắt được những nét tiêu biểu đấy của sông nước ở vùng quê, lúc trời đã khởi đầu bước vào những ngày lạnh buốt:

Những luồng run rẩy rung chuyển lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)

Thế rồi trong cái ko khí se lạnh đấy của thôn dã, những tưởng sẽ ko có bóng vía của con người, đó vậy nhưng thật bất thần đối với người đọc:

Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Hai câu thơ chấm dứt đã góp phần biểu lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ ko lầm hình như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ chẳng hề là “buông”. Theo Việt Nam từ điển thì “buông” hay hơn, thích hợp với tính cách của thi sĩ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đấy là niềm vui của thi sĩ nơi làng quê để giải trí trong công tác, để hòa mình vào tự nhiên, nhưng quên đi những bận tâm với non sông, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: buông lỏng, đi câu ko cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), nhưng để tiêu khiển, do đó “ôm” không liên quan với tình cảnh. Từ “buông” đem đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn.

Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của thi sĩ đối với tự nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao bé, những “ngõ trúc vòng vèo”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm si mê lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn dã chẳng có gì là lạ lẫm, mùa thu ở thôn dã chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa bộc lộ được cuộc sống thơ ngây nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có thuộc tính vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được thiện cảm của bạn đọc, đã đọc qua 1 lần thì khó nhưng quên được.

Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông 1 lòng ko hiệp tác với địch thủ. Ông được mệnh danh là “thi sĩ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc trưng là chùm 3 bài thơ thu tiêu biểu cho làng quê, cảnh quan Việt Nam. Trong đấy nổi trội hơn cả là bài Câu cá mùa thu.

Ví như ở bài Thu vịnh cảnh nhận được đón chờ từ cao xa rồi mới tới gần thì bài Câu cá mùa thu quang cảnh tự nhiên mùa thu lại được đón chờ ở 1 chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều chiều hướng cực kỳ sinh động.

Cảnh nhận được mở ra với hình ảnh ko gian vô cùng trong trẻo:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Không khí mùa nhận được gợi nên từ sự dịu nhẹ, sơ khai nhất của cảnh vật với làn nước trong vắt, ko 1 gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa bự với dòng nước đỏ đục đã ko còn thay vào đấy là cái thanh vắng, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong ko gian bé hẹp đó là hình ảnh của chiếc thuyền câu mà nó chẳng phải lọt thỏm giữa ko gian tự nhiên nhưng mà rất hài hòa, tương hợp. Tác giả vẽ ra quang cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, mà kì thực chúng lại hòa quyện với nhau tới kì dị. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ chẳng hề hồ thu – gợi cảm giác bao la, choáng ngợp. Ao thu đó lúc có thuyền câu kế bên trở thành hài hòa, tương hợp và đậm chất quang cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo mà chẳng phải gợi lên cảm giác hạn hẹp, bé nhỏ, tù túng nhưng trái lại gợi nên cái bé nhắn, thanh thoả của cảnh vật.

Bức tranh thu tiếp diễn được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

Những đường nét của quang cảnh cũng vô cùng mảnh khảnh với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, hình như mọi đi lại đều cực kỳ nhẹ nhõm, thanh thoả. Áp dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi trội sự yên ắng tuyệt đối của ko gian, của cảnh vật. Phcửa ải là ko gian cực kỳ yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng cảm quan tinh tế, mẫn cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng giây phút của tự nhiên. Sắc vàng ví như ở những bài thơ khác chính là sắc màu cốt yếu, là điểm nổi bật để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng đó cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong vắt của nước,… nó chỉ góp phần hình thành đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên ko gợi cảm giác buồn phiền của tâm cảnh, hay héo úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ những ngõ trúc vòng vèo:

Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo

Không gian được mở mang ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm thu được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất thiên nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc vòng vèo. Không gian mùa thu cực kỳ yên ắng. Mọi đi lại đều quá nhẹ nhõm, êm ái ko đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đấy liên kết với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái tĩnh lặng, u tịch của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh vắng tuyệt đối của làng quê Việt Nam trong cảnh ghi âm bình, dịu nhẹ.

Bài thơ có đầu đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá nhưng thực lại chẳng hề vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh vắng tới tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ vẻ đẹp của mùa thu: trong vắt, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc trưng sự yên ắng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên 1 cách thâm thúy từ tiếng động độc nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự yên ắng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự lẻ loi, khúc mắc trong tâm hồn thi sĩ. Trong bài các gam màu lạnh hiện ra nhiều: trong vắt, xanh ngắt,… hình như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn thi sĩ hay chính tâm hồn lẻ loi của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Đặt trong bối cảnh quốc gia đầy biến thiên khi bấy giờ, có thể thấy bài thơ trình bày tâm cảnh âu sầu của Nguyễn Khuyến trước hiện tình quốc gia đầy đau thương.

Bài thơ trình bày tài năng sử dụng tiếng nói bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong trắng, giản dị mà lại diễn đạt được tất cả những gì tinh tế, xinh tươi nhất của cảnh vật, diễn đạt được tâm cảnh và tấm lòng của thi sĩ. Gieo vần “eo” – từ vận tài tình góp phần mô tả ko gian bé hẹp và tâm cảnh đầy khúc mắc của tác giả. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái yên ắng tuyệt đối của tự nhiên.

Bài thơ Câu cá mùa thu với tiếng nói bậc thầy ko chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Nhưng đằng sau đấy ta còn cảm thu được 1 tâm hồn gắn bó khẩn thiết với tự nhiên, quốc gia, tấm lòng yêu nước lặng thầm mà ko kém phần sâu nặng.

Viết về đề tài mùa thu ví như ở văn chương Trung Quốc có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là điển hình và rực rỡ thì nền văn chương dân tộc Việt chẳng thể ko nói đến chùm thơ thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm 3 bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của thi sĩ. Đặc trưng là bài thơ“Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mang nét rực rỡ riêng “tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm cảnh, nỗi niềm thầm kín của tác giả.

Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao 3 lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn lâm chung” của cơ chế phong kiến thối nát. Ông ko chịu hiệp tác với giặc, muốn giữ mình thanh bạch nhưng đã về ở ẩn sau hơn mười 5 làm quan. Chùm thơ nhận được Nguyễn Khuyến sáng tác sau lúc về ẩn cư nơi quê nhà.

“Thu điếu” cũng như 2 bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng tiếng nói dân tộc chữ Nôm. Toàn bộ cảnh thu, tình nhận được mô tả hiện lên rõ nét trong 8 câu thơ.

Bắt đầu bài thơ là ko gian, thời kì của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”

Không gian ở đây là ao thu. Ao là đặc biệt của vùng quê chiêm trũng quê hương của tác giả. Thời gian chẳng hề là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ nhưng có nhẽ là khi phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước hình như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh bạch và yên ắng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng khiến cho sự tĩnh mịch ngày càng tăng. Không chỉ vậy “1 chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “1 chiếc” cộng với tính từ “nhỏ tẻo teo” gợi sự bé nhỏ tới cực kỳ. Chiếc thuyền câu như co lại là 1 chấm trên nền của ao thu. Tác giả thử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao hiện ra 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra 1 ko gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc biệt chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ.

Ví như ở 2 câu đề nổi trội lên là sự yên ắng thì 2 câu thực đã mang những nét chuyển di mà nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật nhưng tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn dã.

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng dường như ko có mối liên hệ nhưng có 1 sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi khiến cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật đi lại không phải ồ ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ nhưng nó thật khẽ khàng, nhẹ nhõm sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, liên kết với nhau hình thành màu sắc, hình ảnh khiến cho cảnh thu trở thành chân thật có hồn. Chữ “vèo”làm cho Tản Đà bái phục, tâm đắc cực kỳ. Ông giãi bày 1 đời thơ, ông mới có được 1 câu thơ hợp ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là 1 con người có 1 tâm hồn tinh tế, mẫn cảm mới có thể cảm thu được sự đi lại nhưng như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công mang đến hiệu quả cao.

Không gian cảnh vật ko chỉ bó hẹp trong vòng ko của mặt nước, của ao thu nhưng được mở mang ra 2 chiều với 1 tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Ấy là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu sắc thoáng đạt:

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”

Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là tượng trưng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” Bầu trời xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự nhất quán với ko gian mây trời của “Thu vịnh” “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” ko trôi nhưng “lửng lơ” gợi 1 cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng ko rộng lớn, bao la. Chiều sâu ko gian được chi tiết hóa bằng độ “vòng vèo” của ngõ trúc. Hình ảnh cây trúc hiện ra khá nhiều trong thơ của ông, nhìn nói chung nó mang 1 nét tĩnh mịch và đượm buồn nhưng Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng đó/Cần trúc lưa thưa gió hắt hiu”. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của ko gian. Cảnh vật trở thành tĩnh mịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” nghĩa là vắng vẻ, vắng vẻ ko 1 bóng người cùng lúc cũng cho thấy sự khoáng đãng, trong sạch của ko gian nơi đây.

Sự ảnh hưởng của ngoại cảnh khiến cho con người ko khỏi động lòng nhưng lẻ loi. Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn đưa về như hạc độc/Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng).

6 câu thơ đầu là sự mô tả về cảnh vật, về mây trời nước non mùa thu. Tới 2 cấu kết ta mới thấy sự hiện ra của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở 2 câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ hiện ra với tư thế ngồi bó giò buông cần thả câu hình thành 1 đường nét bất động trên bức tranh thu yên ắng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng tâm thế như đặt ở nơi nào ko để ý tới việc câu để rồi giật thột trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. 1 lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công. Tiếng cá đớp hình thành đi lại bé cũng làm cho thi sĩ giật thột thức giấc tựa mộng mị nó gợi lên sự yên ắng, u tịch tới cực kỳ. Cách hỏi “cá đâu” thật rực rỡ hình thành sự mơ hồ trong ko gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của người điếu ngư. Hình ảnh đó làm cho ta liên tưởng tới cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thung dung ngồi uống rượu dưới gốc cây:

“Rượu tới cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa mộng mị”

Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến mô tả bức tranh thu, qua đấy thi sĩ biểu lộ tâm hồn và tâm cảnh của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng đến con người nhà thơ, nho sĩ trước tình hình quốc gia khi bấy giờ. Theo kinh nghiệm của dân gian nước trong thì ko có cá mà tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư ko nản lòng nhưng tiếp diễn công tác của mình. Cũng giống tương tự chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lăng, triều đình nhà Nguyễn phản kháng yếu đuối nhưng mau chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên chọn lọc tuyến đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm Đào Uyên Minh bên Trung Quốc 1 đời quyết giữ để mình thanh bạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp động như đánh thức nhà Nho, nhà chí sĩ yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên tranh đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh đó thật mơ hồ cũng như trằn trọc trong lòng thi sĩ liệu rằng mình có thể cống hiến giúp đời hay là bất hiệp tác với giặc lánh mình ẩn cư.

Như vậy Nguyễn Khuyến ko chỉ biểu lộ những tình cảm yêu quý tự nhiên, quê hương quốc gia nhưng còn bí mật bộc bạch nỗi buồn trong trắng mà lẻ loi của 1 ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước mà cam phận đành bất lực trước thời thế chọn lọc tuyến đường lánh đục về trong.

Nguyễn Khuyến là 1 trong những đại diện bự nhất và của văn chương trung đại Việt Nam ở quá trình cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự liên kết tài tình giữa tinh hoa văn chương bác học với văn chương dân gian. “Thu điếu” là 1 trong những bài thơ hay và rực rỡ với sự thành công của văn pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm nhãn, sử dụng các từ láy có tính gợi hình, gợi cảm cao đặc trưng là cách gieo vần “eo” thật tài tình. Bài thơ được tuân theo đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính quy phạm của thơ ca trung đại cũng tiến hành giải quy phạm với những thông minh mới ko còn sử dụng những hình ảnh ước lệ, biểu trưng nhưng thay vào đấy là sự mộc mạc, chân chất của đời sống nông thôn.

“Thu điếu” cộng với 2 bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp phần làm nên sự phong phú và rực rỡ cho đề tài viết về mùa thu của nền văn chương dân tộc với nét đặc biệt là sự yên ắng, yên bình với những hình ảnh bình dị của làng quê.

Nguyễn Khuyến được biết tới nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.3 bài thơ bằng tiếng Nôm 1 trong số đấy chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê thời xa xưa, biểu hiện 1 nét lẻ loi trong tâm hồn 1 nhà Nho yêu quê hương yêu quốc gia thời bấy giờ. Sau khoảng thời kì ông từ quan về quê nhà, 1 loạt những tác phẩm có mặt trên thị trường như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.

Bắt đầu bài thơ là 2 câu thơ

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”

Chỉ cần đọc 2 câu thơ ta có thể hình dung ra cảnh sắc mùa thu, 1 ko gian nghệ thuật đang bao trùm bao quanh chúng ta. Nước trong vắt của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, 1 ko khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp ko gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa nhưng là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo tương tự. Không biết từ bao giờ nhưng trong lòng ao đã hiện ra 1 chiếc thuyền câu giữa ko gian rộng lớn bao la hình như sự lẻ loi của chiếc thuyền đang lan tỏa rộng ra khắp ko gian. Nhỏ tẻo teo tức là rất bé bỏng; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong vắt – nhỏ tẻo teo). Ấy là 1 nét thu đẹp và êm ả. Tiếp đấy cùng bước vào toàn cầu nghệ thuật của 2 câu thơ tiếp theo:

“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật bao quanh theo ko gian 2 chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Hết sức mộc mạc giản dị mà cũng có thể cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc được tác giả mô tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ khiến cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăm tăm từng làn từng làn hơi gợn tí. Ngoài ra kế bên đấy tác giả còn liên kết sử dụng phép đối 1 cách cực kỳ tài tình tạo điều kiện cho nét nhận được nhấn mạnh giúp người đọc có thể tưởng tượng ra ko gian nhưng tác giả đang mô tả như đang ở trước mặt mình 1 cách cực kỳ sống động và rõ nét. Phcửa ải xác nhận 1 điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến cực kỳ tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăm tăm của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 nhân tự nhưng sau này nhà thơ Tản Đà vừa bái phục, vừa tâm đắc. Ông giãi bày 1 đời thơ mới có được 1 câu hợp ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa ngừng lại ở ấy Nguyễn Khuyến còn giúp chúng ta mở mang tầm mắt hơn ở 2 câu thơ tiếp theo:

“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”

1 bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm rộng lớn và bao la đang bao trùm lấy ko gian nơi đây. Những áng mây đang lẳng lặng trôi trên bầu trời bao la như đang nhấn mạnh sự bao la của ko gian nơi đây. Thoáng đãng, êm ả, yên ắng và nhẹ nhõm. Không 1 bóng người lại qua trên tuyến đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Vắng teo tức là cực kỳ tĩnh mịch ko 1 tiếng động bé nào, cũng gợi tả sự lẻ loi, trống trải. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ khi nào cũng gợi tả 1 tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc đó
Thuyền người nào khách đợi bến đâu đây?

(Nhớ núi Đọi)

Có nhẽ 1 trong những sự vật không xa lạ với hình ảnh làng quê đấy là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng hiện ra rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể mô tả 1 cách cực kỳ sống động tương tự được. Tới 2 cấu kết thì bức tranh thu mới hiện ra 1 nhân vật khác:

“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Thu điếu tức là mùa thu câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá tới tận phần mới thấy hiện ra với 1 tư thế tựa gối ôm cần cực kỳ thanh nhàn. Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được tự dưng tác giả tự dưng chợt tỉnh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự kì vọng đã từ rất lâu mãi tới hiện thời đã có 1 chút kết quả. Người câu cá như đang ko ân cần tới mọi thứ tạp niệm chỉ hòa mình vào trong ko gian hiện thời, trong cảnh sắc cực kỳ tuyệt đẹp, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về 1 Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy ngàn 5 về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đấy là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh đó hòa quyện với 1 tiếng trên ko ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong 1 tâm cảnh lẻ loi và lặng thầm buồn. 1 cuộc đời thanh sạch, 1 tâm hồn thanh cao đáng trọng.

Thu điếu là 1 trong những tác phẩm quá hoàn hảo của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng bày tỏ rằng trong Thu điếu có 1 nét diệu xanh nhưng người ta ko tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có 1 màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên ẩn sâu trong cái yên ắng này lại có 1 nỗi buồn man mác của tác giả. 1 tâm thế nhàn hạ và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu khẩn thiết. Mỗi nét thu là 1 sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiện, vần thơ: veo – teo – tèo – teo – bèo, phép đối hình thành sự hài hòa tương hợp, điệu thơ nhẹ nhõm bâng khuâng cho thấy 1 văn pháp nghệ thuật cực kỳ điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương.

Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng dường như cộng với sự chấm dứt của cơ chế xã hội phong kiến suy vong lỗi thời, nền văn chương Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự tuyệt vọng với 1 phương thức đề đạt đã lạc hậu. Nhưng thật kì dị là trong sự suy thoái tưởng chừng đã tới cực điểm đó lại hiện ra 1 tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như 1 dấu chấm cảm thán khẳng định tính cổ đại có sức biến chuyển lòng người của văn chương trung đại vào quá trình của thời gian văn chương dài hàng chục thế kỷ này. Ông để lại cho quê hương, cho quốc gia 1 di sản văn học phong phú, khổng lồ. Nhưng nhắc đến thi sĩ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là thi sĩ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc trưng là chùm thơ thu của ông, trong đấy có bài thơ Thu điếu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Chùm thơ 3 bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy 1 tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã khẳng định là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình rực rỡ: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu tự nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương khẩn thiết.

Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tiếng nói tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc hoàn hảo dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt
1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Nhà thơ hầu như ko hứng thú gì với chuyện câu cá nhưng si mê với ko khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu thi sĩ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với thuộc tính lạnh lẽo nước trong vắt thì đấy đúng là ao thu chứ chẳng hề là môi trường phù hợp cho việc câu cá, kế bên đấy cảm hứng của thi sĩ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, 1 cảnh trong và tĩnh hầu hết tuyệt đối, nước trong vắt, trời xanh ngắt, khách vắng teo, cảm quan của thi sĩ cực kì tinh nhậy và phải vô cùng chuyên chú thì mới nhìn thấy được những bộc lộ bé nhặt tinh xảo chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của 1 quang cảnh đầy màu sắc:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ nhưng lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, vận tốc vèo của lá bay tương ứng với chừng độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói 1 đời thơ của mình hoạ chăng mới có được câu thơ hợp ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:

Vèo trông lá rụng đầy sân

Tới câu luận:

Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt
Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo.

Không gian được mở mang, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lửng lơ trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận mặt sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt.

Xanh ngắt là xanh nhưng có chiều sâu. Trời thu ko mây (xám) nhưng xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của ko gian, cái nhìn vời vợi của thi sĩ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về 4 phía làng quê. Thôn xóm tĩnh mịch, u tịch, tuyến đường vòng vèo, hẻo lánh, ko 1 bóng người qua lại.

Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo

Cảnh vật êm ả, thoáng 1 nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo tới chiếc thuyền câu nhỏ tí teo, từ sóng biếc tới lá vàng, từ tầng mây lửng lơ tới ngõ trúc… đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất thân cận, thân thiện với mọi người Việt Nam.

……………..

Tải File về để xem thêm nội dung cụ thể

.

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến gồm 3 dàn ý cụ thể kèm theo 12 bài văn mẫu được Học Điện Tử Cơ Bản tổng hợp từ các bài văn hay nhất của các bạn học trò giỏi. Với tài liệu này sẽ giúp các bạn học trò lớp 11 củng cố thêm vốn từ cũng như có nhiều ý nghĩ lúc viết văn.

Phân tích Câu cá mùa thu (Thu Điếu) của Nguyễn Khuyến để thấy được vẻ đẹp của mùa thu nơi làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Bài thơ Câu cá mùa thu gợi 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê xưa, biểu hiện mối tình thu đẹp nhưng lẻ loi, buồn của 1 nhà Nho. Vậy sau đây là 12 bài văn mẫu Phân tích Câu cá mùa thu, mời các bạn cùng theo dõi trong bài viết dưới đây. Dàn ý phân tách bài thơ Câu cá mùa thu Dàn ý cụ thể số 1

I. Mở bài

Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: 1 tác giả chịu tác động đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau lúc thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm trình bày sự hòa hợp với tự nhiên thanh tịnh
Bài thơ Câu cá mùa thu: Là 1 bài thơ trong chùm thơ thu 3 bài được sáng tác chỉ mất khoảng tác giả ở ẩn

II. Thân bài 1. Hai câu đề

– Mùa thu gợi ra với 2 hình ảnh vừa đối lập vừa hợp lý hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” nhỏ tẻo teo;

Màu sắc “trong vắt”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu Hình ảnh: Chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo ⇒ rất bé

Cách gieo vần “eo”: giàu sức bộc lộ

– Cũng từ ao thu đó tác giả nhìn ra mặt ao và ko gian quanh ao ⇒ đặc biệt của vùng đồng bằng Bắc Bộ. ⇒ biểu lộ rung cảm của tâm hồn nhà thơ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ lùng 2. Hai câu thực

– Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:

Sóng biếc: Gợi hình ảnh mà cùng lúc gợi được cả màu sắc, đấy là sắc xanh dịu nhẹ và mát rượi, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc biệt của mùa thu Việt Nam

– Sự đi lại:

hơi gợn tí ⇒ đi lại rất nhẹ ⇒sự chuyên chú quan sát của tác giả
“khẽ đưa vèo” ⇒ đi lại rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận thâm thúy và tinh tế

⇒ Nét rực rỡ rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đấy chính là “cái hồn dân dã” 3. Hai câu luận

– Cảnh thu đẹp 1 vẻ bình dị mà yên ắng và đượm buồn:

Không gian của bức tranh nhận được mở mang cả về chiều cao và chiều sâu Tầng mây lửng lơ: gợi cảm giác thanh nhẹ, không xa lạ thân cận, thanh bình, yên ắng. Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp diễn sử dụng, mà chẳng hề là màu xanh dịu nhẹ, mát rượi nhưng xanh thuần 1 màu trên diện rộng ⇒ đặc biệt của mùa thu. Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc vòng vèo”: hình ảnh không xa lạ

Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh tĩnh, êm ả, yên ắng

⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở mang lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, ko gian yên ắng và thanh tĩnh 4. Hai cấu kết

– Xuất hiện ảnh ảnh con người câu cá trong ko gian thu yên ắng với tư thế “Tựa gối buông cần”:

“ Buông”: Thả ra (buông lỏng) đi câu để tiêu khiển, ngắm cảnh mùa thu
“Lâu chẳng được” : Không câu được cá

⇒ Đằng sau đấy là tư thế thoải mái thư thả ngắm cảnh thu, câu cá như 1 niềm vui làm thoải mái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với tự nhiên của con người – Toàn bài thơ mang vẻ yên ắng tới câu cuối mới hiện ra tiếng động: + Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chuyên chú quan sát của thi sĩ trong ko gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh” ⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong ko gian bao la càng làm tăng vẻ tĩnh vắng , “cái tĩnh hình thành từ 1 cái động rất bé” ⇒ Nói câu cá mà thực ra chẳng hề bàn chuyện câu cá, sự yên ắng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi lẻ loi, khúc mắc trong tâm hồn thi sĩ, đấy là hàn ôn đầy âu sầu trước cảnh ngộ quốc gia đầy đau thương

5. Nghệ thuật

Văn pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh cảnh quan Áp dụng tài tình nghệ thuật đối. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công

Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình

III. Kết bài

Khẳng định lại những nét điển hình về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Bài thơ mang lại cho bạn đọc những cảm nhận sâu lắng về 1 tâm hồn yêu nước thầm kín nhưng khẩn thiết

Dàn ý cụ thể số 2 a. Mở bài Giới thiệu bài thơ Câu cá mùa thu và tác giả b. Thân bài *Hai câu đề

“Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

Ao thu là 1 hình ảnh rất thân cận với cuộc sống thường nhật, cộng với thời tiết se lạnh và dòng nước trong vắt
Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được trình bày qua 2 câu thơ

* Hai câu thực “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.

Hình ảnh sóng biếc gợn tí và hình ảnh lá vàng, cảm giác như những hình ảnh rất bé nhỏ Không gian yên ắng của mùa nhận được tăng dần so với câu trước

Tâm hồn rất mẫn cảm, tinh tế của tác giả

*Hai câu luận
“Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”.

Sự êm ả nhẹ nhõm Cảm giác mung lung kì ảo

Cảnh buồn, u tịch, lòng người trĩu nặng, lẩn quẩn ko lối thoát

* Hai cấu kết “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

1 bức tranh tự nhiên hài hòa
Ném mọi tâm tình ko vấn vương đến thế, thói thường

c. Kết bài Nêu cảm nhận của em về bài thơ Câu cá mùa thu Dàn ý cụ thể số 3 a. Mở bài Trước kia, trong văn học Việt Nam đôi lúc cũng có tác phẩm viêt về nông thôn, mà hình ảnh về cảnh quê khái quát còn mờ nhạt. Phcửa ải tới Nguyễn Khuyến, lần trước tiên cảnh nông thôn mới thực thụ đi vào văn chương. Nguyễn Khuyến viết nhiều về tự nhiên với ngòi bút ấm áp bình dị, có lúc còn gửi gắm chút hàn ôn. 1 trong những bài thơ trình bày nội dung trên là bài Câu cá mùa thu. b. Thân bài Từ tên bài thơ tới mọi cụ thể mô tả đều trực tiếp hay gián tiếp làm rõ 2 từ Thu điếu (Câu cá mùa thu). Hai câu đề cho thấy cảnh được báo hiệu từ tên gọi tác phẩm: có ao, có thu (hợp lại thành ao thu), có nước trong vắt, có chiếc thuyền câu bé. Đúng là bài thơ trò chuyện Câu cá mùa thu, tuy câu cá chỉ là bề ngoài vẻ ngoài. Các câu thơ tiếp theo đều được diễn ra xoay bao quanh “trục” này, dù người đọc có cảm nghĩ tác giả nhấn mạnh vào nhân tố thu hơn nhân tố câu cá. Cảnh thu đã được nhìn từ con mắt của 1 người ngồi câu trên ao. * Sắc thái riêng của mùa thu nông thôn Bắc Bộ – Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao nước trong tưởng có thể nhìn thấu đáy (trong vắt), sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi trội màu xanh ngắt (xanh ở đây cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh) thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như có như ko (cái động của liêng cá đớp bỗng càng làm nổi trội cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh. – Đây là cảnh thu đặc biệt của đồng bằng Bắc Bộ, ở xứ đồng chiêm trũng. Các cụ thể mô tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như ko vướng chút ước lệ nào, có thể gợi những xúc cảm sâu lắng về quê hương. – Dưới ngòi bút của tác giả, tất cả các sự vật được nhắc đến đều xứng hợp với nhau: ao thu bé – thuyền câu nhỏ, gió nhẹ – sóng gợn tí, trời xanh – nước trong, khách vắng teo – người ngồi câu trầm mặc im lặng, đặc trưng là các mảng màu xanh của nước, của tre trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời. – Từ láy trong thơ không những tạo ra vẻ thuần Nôm cho tác phẩm nhưng còn có công dụng làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa mô phỏng dáng dấp, động thái của sự vật, khiến cho sự vật hiện lên chân thật, vừa trình bày được chuyển đổi tinh xảo trong xúc cảm chủ quan của người thông minh: lạnh lẽo, tẻo teo, lửng lơ. Lạnh lẽo ko hẳn nói về cái lạnh của nước nhưng nói về ko khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm cảnh u uất của thi sĩ. Tẻo teo có thể được giảng giải là rất bé (chiếc thuyền câu bé), âm eo được lặp lại gợi liên tưởng về 1 “nhân vật” đang mỗi khi 1 thu hẹp diện tích, thích hợp với cái nhìn của thi sĩ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, ko mở ra quá rộng khiến cho ko khí suy tư bị loãng đi. Lửng lơ vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại lưng chừng giữa tầng ko, vừa gợi hiện trạng mơ mòng của thi sĩ. * Không gian trong thu điếu – Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp mà yên ắng và đượm buồn. Không gian Thu điếu là 1 ko gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Các đi lại rất nhẹ, rất khẽ ko đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lửng lơ, lá khẽ đưa. Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo. – Cá đâu đớp động dưới chân bèo chẳng thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp (tức là ko đớp). Từ đâu trong câu này là đại từ phiếm chỉ chứ chẳng hề là từ hư phủ định. 1 tiếng động độc nhất – tiếng cá đớp mồi càng làm ngày càng tăng sự tĩnh lặng, u tịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ 1 cái “động” rất bé. Đây là nghệ thuật lấy “động” nói “tĩnh”, 1 thủ pháp nghệ thuật gợi tả không xa lạ của thơ cổ đại. * Tâm sự thi sĩ – Nói câu cá mà thực ra chẳng hề để mắt tới vào việc câu cá. Nói câu cá mà thực ra là đón chờ trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của thi sĩ yên tĩnh, tĩnh mịch. Yên ắng trong sự cảm nhận độ trong vắt của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khe khẽ của lá. Đặc trưng sự yên ắng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên 1 cách thâm thúy từ tiếng động độc nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất bé ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm tới thế, vì tâm trạng đang trong sự yên ắng tuyệt đối. Sự yên ắng mang lại sự cảm nhận về 1 nỗi lẻ loi, u uất trong lòng thi sĩ. – Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đấy là 1 con người bình dị, gắn bó thâm thúy với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn sơ của chốn thôn quê yên bình, hướng về sự thanh bạch cao quý và luôn có ý thức bổn phận đối với cuộc đời. c. Kết bài – Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao và niềm ưu phiền của đối tượng trữ tình trong bài. – Thđó được sự tinh tế, tài ba trong cách mô tả tự nhiên và biểu hiện tâm cảnh của thi sĩ.

Lược đồ tư duy phân tách Câu cá mùa thu

Phân tích Câu cá mùa thu – Mẫu 1 Nguyễn Khuyến là thi sĩ lừng danh với cá tính thơ đặc biệt, biệt lập. 1 trong những bài thơ điển hình cho cá tính thơ của ông chính là bài Câu cá mùa thu. Bắt đầu bài thơ tác giả mô tả quang cảnh tự nhiên thân cận với làng quê: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo” “Ao” là hình ảnh thân cận, quen thuộc với người dân cày. Thời tiết chuyển sang mùa thu, ngay cả cái ao cũng mang hơi hám, âm hưởng mùa thu với làn nước mát rượi và trong vắt. Trong quang cảnh mùa thu với ao nước trong xanh, làn nước mát rượi đó là hình ảnh chiếc thuyền câu của người nhà thơ bé nhỏ, lọt thỏm trong ko gian bao la trở thành “nhỏ tẻo teo”. Khung cảnh tự nhiên, bức tranh mùa thu trở thành xinh tươi và mang màu sắc biệt lập ko lẫn với bất kỳ nơi nào. Bức tranh mùa thu ở làng quê được mô tả ở những cảnh vật quen thuộc khác: “Sóng nước theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo” Làn gió thổi lăm tăm sóng trên mặt nước “hơi gợn tí” khiến cho bức tranh tuy động mà vẫn tĩnh. Tiếng sóng nước bé nhỏ ti li gợn gợn gợi cảm giác yên bình. Hình ảnh chiếc lá vàng rụng khỏi cây và rơi xuống đất được mô tả sinh động “khẽ đưa vèo” vừa gợi sự mong manh yếu ớt của chiếc lá bị gió cuốn bay vừa gợi âm thanh mùa thu – âm thanh của những chiếc lá rơi. Bầu trời mùa thu mang vẻ đẹp yên bình: “Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo” Bầu trời mùa thu có những đám mây lửng lơ trên ko trung tầng phân khúc lớp mà vẫn để lộ ra khoảng trời trong xanh tạo ra bầu ko khí dịu mát. Thêm vào đấy là khung cảnh bao quanh nhà thơ với con ngõ chạy vòng vèo mà tĩnh mịch ko 1 bóng người khiến cho ko gian trở thành cực kỳ yên tĩnh. Trong bức tranh mùa ghi âm bình đấy là hình ảnh người nhà thơ thung dung, tự do tự tại: “Tựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo” Trong bức tranh tự nhiên mùa thu đó là hình ảnh người nhà thơ khoan thai buông chiếc cần câu để câu cá nhưng ko chút vướng bận mà đợi mãi ko có con cá nào cắn câu. Hình ảnh đàn cá “đớp động dưới chân bèo” tạo cảm giác thú vị. Người nhà thơ có thể nhận ra con cá, nghe thấy tiếng động của nó mà chẳng thể bắt được chúng. Bức tranh mùa thu với những cảnh vật không xa lạ của làng quê Việt Nam tuy giản dị mà cực kỳ tươi đẹp. Trong bức tranh tự nhiên đấy là hình ảnh con người thung dung, khoan thai hưởng thụ cuộc sống. Vần “eo” thường được người ta cho rằng mang ý nghĩa ko tốt và rủi ro mắn mà nhờ sự thông minh của mình, Nguyễn Khuyến đã đem đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ, sự tươi vui lúc gieo vần này và tạo ra 1 bài thơ hay, lạ mắt. Nhiều 5 tháng qua đi mà bài thơ vẫn giữ nguyên lành trị giá lúc đầu của nó và để lại ấn tượng thâm thúy trong lòng nhiều lứa tuổi độc giả. Phân tích Câu cá mùa thu – Mẫu 2 Nhắc tới mùa thu, thường gợi cho ta nghĩ tới vẻ đẹp dịu dàng, yên ả nhưng bàng bạc 1 nỗi sầu khắc khoải, nhưng man mác 1 nỗi niềm khẩn thiết. Cho nên, thu đi vào những trang thơ của người nghệ sĩ vừa đẹp cảnh lại vừa đẹp tình. Trong kho tàng văn thơ trung đại Việt Nam, đã nói đến mùa thu thì chẳng thể ngoại trừ tới chùm thơ thu của “ông hoàng mùa thu” – Nguyễn Khuyến. Qua bức tranh “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) , cùng tới với cái tình của Nguyễn- 1 bầu hàn ôn nói mấy cũng ko vơi, nhìn vào đâu cũng thấy thơ, cũng có thể bắt vào thơ. Chỉ bằng 1 vài đường nét, 1 vài sắc màu tô điểm, ta thấy được qua bức tranh “câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến tràn đầy mênh mông những cái tình của thi nhân. Nhưng có nhẽ đầu tiên, “tình” ở đây chính là cái tình gắn bó, cái tình quyện hòa, cái tình khẩn thiết với tự nhiên nước non. Đọc “Thu điếu”, ta như được đắm mình vào 1 ko gian thu rất riêng của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Nếu qua “Thu hứng”, Đỗ Phủ vẽ ra 1 bức tranh mùa thu đặc biệt của miền Bắc Trung Quốc, liên kết giữa cái xơ xác, tiêu điều với cái dữ dội, động dao; nếu qua “Thu vịnh”, mùa nhận được Nguyễn Khuyến đón chờ từ ko gian khoáng đãng bát ngát với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của ko gian, thì tới “thu điếu” – mùa nhận được hình thành bằng tất cả những thi liệu “đượm chất thu” và rất mực cổ đại. Hình ảnh “thu thủy”- làn nước mùa thu sóng đôi với “thu thiên”- bầu trời thu, liên kết cùng “thu diệp” – lá thu và hình ảnh “ngư ông” – người câu cá. Ao thu – vốn là 1 ko gian chẳng còn lạ lẫm của vùng quê Bắc Bộ. Trung tâm của bức tranh thu là 1 chiếc thuyền câu “nhỏ tẻo teo”. Từ chính chiếc thuyền con giữa lòng ao bé đó, ánh mắt của thi nhân bao quát ra bao quanh và cảm nhận biết nước ao thu lạnh lẽo và trong vắt tới hết độ. Rồi mùa thu hiện lên với nào sóng biếc “gợn tí”, xa hơn 1 chút là hình ảnh lá vàng “khẽ đưa vèo” trong gió, cao hơn là khoảng ko gian vời vợi của bầu trời “xanh ngắt”, men theo lối đi của chiếc ao bé là ngõ trúc “vòng vèo” uốn lượn… và tới , tầm mắt của thi nhân lại trở lại với chiếc thuyền câu bởi âm thanh của tiếng cá “đớp động” dưới chân bèo. Khung cảnh hiện lên đẹp tựa tiên giới, mà lại là vẻ đẹp cực kỳ giản dị quen thuộc, gắn liền với đồng đất quê hương. Xuân Diệu từng nhận xét: “…Thu điếu (Câu cá mùa thu) là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Mùa thu của thi nhân ko chỉ gây ấn tượng ở màu sắc, chẳng những đẹp trong từng nét họa nhưng còn vang động những thanh âm rất riêng. Ao thu xuất hiện qua 2 tính từ: “lạnh lẽo” và “trong vắt” – ao lạnh, nước yên và trong tới tận đáy. Ở đây, cái trong đã song hành cùng cái tĩnh: càng trong lại càng tĩnh, càng tĩnh lại càng trong. Còn bầu trời, Nguyễn chọn lọc tô điểm màu “xanh ngắt” – là sợi chỉ xuyên suốt kết nối chùm thơ thu 3 bài của thi nhân, cũng cho nên nhưng biến thành gam màu đặc biệt cho hồn thơ thu Nguyễn Khuyến. “Xanh ngắt” là xanh trong tuyệt đối ko chút pha trộn, ko chút gợn tạp. Nguyễn Khuyến đã mở lòng để đón chờ cái thần thái rất riêng của bầu trời thu như thế. Còn với “gió thu” tác giả ko mô tả trực tiếp nhưng sử dụng văn pháp cổ đại “vẽ mây nảy trăng”. Tả sóng nước “gợn tí”, tả lá vàng “khẽ đưa vèo” chính là thi sĩ đang họa nên gió. Với hình ảnh “ngõ trúc vòng vèo – vắng teo” ko 1 bóng người qua gợi nên 1 ko gian thu yên tĩnh tới yên ả. Câu thơ cuối đã được tác giả khôn khéo lồng vào văn pháp thi ca cổ đại “lấy động đánh tĩnh”. Phcửa ải là 1 ko gian yên ắng tuyệt đối thì cả con người với tự nhiên mới có thể giật thột trước âm thanh rất bé – “cá đớp động”. Cái động của tiếng cá đớp càng làm nổi trội cái tĩnh chung của cảnh. Bức tranh thu hiện lên với vẻ đẹp thanh tĩnh, quạnh vắng, chỉ có độc nhất thi nhân đang trong vai của 1 ngư ông đối diện với tự nhiên nhưng như đang chìm vào cõi suy tư trầm mặc. Không gian yên ắng, vắng người, vắng tiếng, cảnh hẹp và thu bé trong khuôn ao thôn ấp. Bức tranh thu của Nguyễn Khuyến còn là sự hòa quyện tinh tế giữa vô vàn cung bậc của các “điệu xanh” (Xuân Diệu): xanh ao, xanh sóng, xanh bèo, xanh bờ, xanh trời và xanh trúc. Rồi điểm xuyết giữa những sắc xanh đó, người ta thấy nổi trội 1 màu “lá vàng” đã hình thành sự hòa sắc nhẹ nhõm cho cả bức tranh. “Lá vàng” thường gợi sự tàn phai, tiêu điều, vốn là tượng trưng cho mùa thu phương Bắc. Nguyễn Khuyến gợi chứ ko tả, chỉ với 3 từ “khẽ đưa vèo” nhưng gợi được cả cái thanh sơ nơi màu vàng của chiếc lá trên nền trời xanh đang chao nghiêng, trên sóng biếc gợn nhẹ. Đây chính là giây phút bất thần nhưng đầy chất thơ của tạo vật cho thấy đôi mắt với ánh nhìn chủ động của người nghệ sĩ. Tác giả thử đang nghiêng lòng mình, lắng tai mọi tàn phai trong sự đi lại khẽ khàng của cảnh. Cả bức tranh thu là sự hòa điệu về đường nét đi lại mảnh khảnh, nhẹ nhõm tới tinh tế phê chuẩn chuỗi các động từ: “khơi gợn tí”, “lửng lơ”, “khẽ đưa vèo”… Ao thu bé nên thuyền câu nhỏ, trời xanh ngắt nên nước thêm trong, khách vắng teo nên người ngồi câu cũng trầm mặc, im lặng. Bức tranh tự nhiên được hòa sắc vào nét, bỗng trở thành hài hòa xứng hợp, dễ nhìn tới lạ kì. Như vậy, để làm sống dậy hồn của cảnh trên trang viết, Nguyễn Khuyến đã sử dụng 1 hệ thống ngôn từ cực kỳ tài ba – thứ tiếng nói gợi cảm, giàu giai điệu và được biến hóa qua nhiều sắc thái bất thần. Trước hết là hệ thống các từ láy vừa gợi hình, vừa gợi cảm, những tính từ chỉ chừng độ được liên kết vô cùng tinh tế: “lạnh lẽo, trong vắt, nhỏ tẻo teo, gợn tí, vèo, lửng lơ, xanh ngắt, vòng vèo, vắng teo”. Việc chọn lọc vần “eo” – vốn được coi là vần chết trong thi ca, dưới ngòi bút tài tình của tác giả đã thành công bất thần, gợi cho ta cảm giác ko gian mỗi khi 1 thu hẹp, bức tranh càng gợi cảm giác dễ nhìn, bé bỏng rất thích hợp với ý kiến thẩm mĩ truyền thống của người Việt xưa. Cảnh đạm bạc, đơn sơ, ko lộng lẫy mà vẫn vô cùng gợi cảm; cảnh đẹp mà lại đượm buồn. Nguyễn Du đã từng đúc kết 1 qui luật: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, bức tranh thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy, cũng mang nặng những nỗi niềm hàn ôn u hoài của tác giả trước thời cục thay đổi. Bài thơ, có thể nói, đã được tạo nên từ sự cộng hưởng giữa nỗi sầu ủ sẵn trong cảnh và niềm lẻ loi ẩn sâu trong lòng người. Với đầu đề: “Câu cá mùa thu” mà đối tượng trữ tình lại chẳng mấy nhọc lòng tới chuyện câu cá, nhưng nói “câu cá” thực ra là để đón chờ cảnh thu vào lòng nhưng gửi gắm hàn ôn. Bức tranh thu yên ắng hay chính là 1 cõi lòng yên ắng tuyệt đối. Cái se lạnh của cảnh thu đang thấm vào tâm hồn của thi sĩ hay cái lạnh của lòng thi nhân đang tỏa lan ra cảnh vật? Ở Nguyễn Khuyến, ta thấy 1 nỗi buồn u hoài thăm thẳm lẻ loi của 1 nhà nho lánh đời thoát trần, mà trong lòng vẫn bồn chồn nỗi niềm dân nước. Cũng giống như Nguyễn Trãi 5 xưa về Côn Sơn ở ẩn, Nguyễn Khuyến nhàn thân mà ko nhàn tâm. Khi ông đạt tới đỉnh cao sự nghiệp thì cũng là khi dân tộc bước vào 1 quá trình lịch sử đầy bi thảm. Chế độ phong kiến bấy giờ biến thành 1 gánh nặng của lịch sử, ko còn đủ bản lĩnh để đưa quốc gia thoát khỏi họa ngoại xâm và nô dịch. Hệ tư tưởng Nho giáo nhưng thi sĩ từng tôn thờ đã trở thành lỗi thời, lạc hậu. Nguyễn Khuyến tinh thần thâm thúy sự bất lực của bản thân. Ông luôn cảm thấy băn khoăn, bứt rứt vì chẳng thể làm gì hơn cho quốc gia, cho quần chúng. Điều độc nhất ông có thể làm là bất hiệp tác với địch thủ, lui về quê ở ẩn, giữ giàng tiết tháo tư cách, quên đi những dằn vặt sự đời mà muốn quên nhưng không thể quên được. Tại nơi thôn dã thanh sơ, Nguyễn Khuyến vẫn đau đáu 1 nỗi quan hoài túc trực – ông là 1 con người nặng tình với quốc gia, với quê hương. Hai câu thơ cuối kết lại mạch xúc cảm, gợi ra lòng người thanh thản với tư thế thu mình ngồi tới lặng thầm của 1 ngư ông “lánh đục về trong” “Tựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo”. Nhà thơ chuyên chú dõi nhìn cảnh sắc mùa thu, cho tới lúc nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo mới giật thột sực tỉnh. Vừa trở về với thực tại, thi sĩ đã đưa mình vào hiện trạng lơ lửng… 1 chữ “đâu” nhưng chẳng thể phân biệt được đâu là hư, đâu mới là thực. “Đâu” là đâu có hay “đâu” là đâu đấy? Bức tranh thu liệu thực có tiếng cá đớp động hay ko? Người đọc ko biết, thi nhân cũng ko tài nào lí giải nổi. Người ngồi câu nhưng như hóa thạch giữa ko gian, thời kì, đi câu nhưng cái chí lại ko đặt ở việc đi câu. Mỗi nhà thơ làm thơ, đầu tiên là phải thổi được cái hồn mình vào đấy, phải biết biến hóa những con chữ thô cứng chứa chan thi vị và “nhảy múa” trong xúc cảm. “Đọc 1 câu thơ hay nghĩa là ta gặp mặt 1 tâm hồn con người” (A-tô-ni Phơ-răng). Qua “Thu điếu”, ta thấy được ở Nguyễn Khuyến 1 tâm hồn gắn bó với tự nhiên, 1 tấm lòng yêu nước thuần phác, thầm kín. Ấy phải là cái nhìn đầy tinh tế của bậc thầy thơ Nôm trung đại mới có thể họa nên bức tranh đẹp nhường đó. Nỗi buồn trong cảnh ko bị đẩy đến chừng độ u uẩn nhưng lan tỏa nhẹ nhõm ra bao quanh, vừa đủ để phục vụ 1 khoảng lặng trong tâm hồn. Chính nỗi u hoài đó của tác giả mới làm nên bịn rịn trong tâm não người đọc, làm nên nỗi day dứt với đời và tạo thành trị giá trường tồn, nhựa sống lâu bền cho tác phẩm. Với “Thu điếu” – Nguyễn Khuyến đã hình thành cho mình 1 chỗ đứng quan trọng trong nền thơ ca trung đại Việt Nam khái quát và trong những thi phẩm chọn lọc đề tài mùa thu nói riêng. Đong đầy trong từng vần thơ con chữ, ta thấy được mênh mông cái tình của thi nhân. Nguyễn Khuyến, hơn 1 nhà họa sĩ là 1 nhà nhà thơ. Thơ ông hơn 1 bức tranh tả cảnh là những ngôn từ gợi tình. Phân tích Câu cá mùa thu – Mẫu 3 Nguyễn Khuyến vừa là thi sĩ trào lộng vừa là thi sĩ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông số đông là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên 2 lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm 3 bài: Thu điếu, thu vịnh. Cả 3 thi phẩm đều được viết bằng từ chương, văn pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn chương trung đại, mà vẫn mang đậm dấu ấn riêng của 1 trong những bậc thầy thơ Nôm đường luật tuyệt vời. Cảnh vật được đón chờ từ gần tới cao xa rồi từ cao xa trờ lại gần. Từ điểm nhìn của 1 người ngồi chiếc thuyền nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn đến ngõ vắng rồi lại trở người về với ao thu, thi sĩ đã quan sát ko gian, cảnh sắc thu theo người lương thật sinh động. “Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo.” Nguyễn Khuyến đã chọn những cụ thể rất điển hình cho mùa thu xứ Bắc (ao thu, gió thu, trời thu). Ao thu là thứ ao rất riêng chỉ mùa thu mới hiện ra. Nguyễn Khuyến đã ghi thu được 2 đặc biệt của ao thu là lạnh lẽo và trong vắt – ao lạnh nước yên, trong tới tận đáy. Ao là nét thường gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, nhắc đến ao là gợi tới 1 cái gì rất thân cận, thân quen, tâm hồn Nguyễn Khuyến là thế: thân tình, bình dị, thật tình với hồn quê. Trời thu trong xanh cũng là hình không xa lạ trong thơ Nguyễn Khuyến. Bầu trời thu xanh ngắt lâu nay vẫn là tượng trưng đẹp của mùa thu. Những án mây ko trôi nổi bay khắp bầu trời nhưng lửng lơ. Xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến là xanh trong, thuần khiết tới tuyệt đối, chẳng phải pha lẫn, chẳng phải gợn tạp. Đường nét đi lại nhẹ nhõm, mảnh khảnh, tinh tế: hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lửng lơ, đường bao thon thả của rặng trúc, đường gợn của lượn sóng ao thu. Cảnh vật toát lên sự hài hòa, xứng hợp: Ao bé – thuyền nhỏ; gió nhẹ – sóng gợn; trời xanh – nước trong; khách vắng teo – chủ thể trầm mặc yên ắng. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu đến cũng đã bắt được những nét tiêu biểu đấy của sông nước ở vùng quê, lúc trời đã khởi đầu bước vào những ngày lạnh buốt: Những luồng run rẩy rung chuyển lá…… Đã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đò. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của tác giả các từ láy vừa tạo hình, vừa gợi cảm, những tính từ và các từ chỉ chừng độ như lạnh lẽo, trong vắt, nhỏ tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lửng lơ, xanh ngắt, vắng teo, vòng vèo việc chọn lọc vần eo đã gợi nên cảm nhận mỗi khi 1 thu hẹp diện tích Cảnh buồn cảnh chẳng đeo sầu – bức tranh cảnh thu đã hé mở cho chúng ta tình thu của người trong cảnh. Phcửa ải chăng đây là tâm cảnh thời thế của thi sĩ? Thời thế chỉnh sửa nhanh quá! Thoáng chốc tổ quốc đã mất trong tay địch thủ. Thoáng chốc thời cục đã vụt qua: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Mặt nước, tầng mây lửng lơ và sắc trời mở ra ko gian cho bài thơ phải chăng cũng cùng lúc ẩn chứa những nỗi niềm hàn ôn liệu có chút gì lửng lơ về thời cục? Chọn tuyến đường ở ẩn để giữ trọn thân danh, giữ lấy cái cao khiết để như tượng trưng đăm đắm của bầu trời kia phải chăng đã thật đúng, hay chỉ là để “chạy làng” trong cách nói đắng cay của 1 vị đại khoa. Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo phải chăng là hàn ôn lẻ loi, lẻ loi? Nguyễn Khuyến có lần tự thấy mình như 1 cành cô trúc đấy thôi! Độc thân và lẻ loi, vắng teo trước thời cục rộn rã. Ấy là hàn ôn của 1 nhà nho lánh đời thoát trần song vẫn ko nguôi nghĩ về quốc gia, quần chúng, về sự tuyệt vọng, bất lực của bản thân? Nhàn thân song ko nhàn tâm, Nguyễn Khuyến chẳng thể thung dung đi câu như 1 ẩn sĩ đích thực. Câu thơ cuối, với tiếng động độc nhất: tiếng cá đớp động. Phcửa ải chăng đấy là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn Khuyến trò chuyện câu cá mà thực ra tác giả ko để mắt tới vào việc câu cá. Nói câu cá mà thật ra là để đón chờ trời thu vào lòng, gửi gắm hàn ôn. Cõi lòng yên ắng để cảm nhận độ trong vắt của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc trưng cõi lòng yên ắng được gợi lên thâm thúy từ 1 tiếng động bé: tiếng cá đớp mồi. Ấy là sự yên ắng tuyệt đối của tâm trạng, cõi lòng của thi nhân cũng yên ắng, trong trẻo như làng quê Việt trong tiết thu. Bài thơ Câu cá mùa thu trình bày sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc thu đồng bằng Bắc Bộ, cùng lúc cho thấy tình yêu tự nhiên, quốc gia, tâm cảnh thời thế về tài thơ Nôm của tác giả. Phân tích Câu cá mùa thu – Mẫu 4 Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm 3 bài nức tiếng nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê xưa, biểu hiện mối tình thu đẹp nhưng lẻ loi, buồn của 1 nhà Nho nặng tình với quê hương quốc gia. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời kì sau lúc ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884) Hai câu thơ: Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt – 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo mở ra 1 ko gian nghệ thuật, 1 cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong vắt có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm ko gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa nhưng là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo tương tự. Trên mặt ao thu đã có 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo từ bao giờ. 1 chiếc gợi tả sự lẻ loi của thuyền câu. Nhỏ tẻo teo tức là rất bé bỏng; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong vắt – nhỏ tẻo teo). Ấy là 1 nét thu đẹp và êm ả. Hai câu thực (Sóng nước theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo) tả ko gian 2 chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ khiến cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăm tăm từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi trội 1 nét thu, tô đậm cái nhận ra và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăm tăm của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 nhân tự nhưng sau này nhà thơ Tản Đà vừa bái phục, vừa tâm đắc. Ông giãi bày 1 đời thơ mới có được 1 câu hợp ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Bức tranh nhận được mở mang dần ra qua 2 câu thơ: Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, rộng lớn. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lửng lơ nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm ả, yên ắng và nhẹ nhõm. Không 1 bóng người lại qua trên tuyến đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Vắng teo tức là cực kỳ tĩnh mịch ko 1 tiếng động bé nào, cũng gợi tả sự lẻ loi, trống trải. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ khi nào cũng gợi tả 1 tình quê nhiều bâng khuâng, man mác: Dặm thế, ngõ đâu từng trúc đóThuyền người nào khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi) Ngõ trúc và tầng mây cũng là 1 nét thu đẹp và quen thuộc của làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ mòng đắm chìm vào cảnh vật. Tới 2 cấu kết thì bức tranh thu mới hiện ra 1 nhân vật khác: Tựa gối ôm cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo. Thu điếu tức là mùa thu câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc. Mãi tới phần kết mới hiện ra người câu cá. 1 tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. 1 sự đợi chờ: lâu chẳng được. 1 cái chợt tỉnh lúc mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về 1 Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy ngàn 5 về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đấy là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh đó hòa quyện với 1 tiếng trên ko ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong 1 tâm cảnh lẻ loi và lặng thầm buồn. 1 cuộc đời thanh sạch, 1 tâm hồn thanh cao đáng trọng. Xuân Diệu đã hết lời ngợi ca cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có 1 màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm ả, yên ắng nhưng man mác buồn. 1 tâm thế nhàn hạ và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu khẩn thiết. Mỗi nét thu là 1 sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiện, vần thơ: veo – teo – tèo – teo – bèo, phép đối hình thành sự hài hòa tương hợp, điệu thơ nhẹ nhõm bâng khuâng cho thấy 1 văn pháp nghệ thuật cực kỳ điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là 1 bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt tác. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 5 Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ 3 bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy 1 tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu”, thi sĩ Xuân Diệu đã khẳng định là “tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình rực rỡ: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu tự nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương khẩn thiết. “Thu điếu” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tiếng nói tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh xắn của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc hoàn hảo dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong vắt” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở thành”lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên nhấp nhoáng 1 chiếc thuyền câu rất bé bỏng -“nhỏ tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, quen thuộc, dễ thương của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có rất nhiều ao do đó ao mập, ao bé thì thuyền câu cũng theo đấy nhưng “nhỏ tẻo teo”: “Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”. Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong vắt”,”nhỏ tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”. Màu “biếc” của sóng hòa hợp với sắc “vàng” của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ nhưng lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, vận tốc “vèo” của lá bay tương ứng với chừng độ “tí” của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói 1 đời thơ của mình hoạ chăng mới có được 1 câu thơ hợp ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”, “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Hai câu luận mở mang ko gian mô tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với những tầng mây “lửng lơ” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận mặt sắc trời thu là “xanh ngắt”: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Thu vịnh) “Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt”. (Thu ẩm) “Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt”. (Thu điếu) “Xanh ngắt” là xanh nhưng có chiều sâu. Trời thu ko mây (mây xám), nhưng xanh ngắt 1 màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của ko gian, cái nhìn vời vợi của thi sĩ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về 4 phía làng quê. Nghe đâu người dân quê đã ra đồng hết. Thôn xóm tĩnh mịch, vắng teo. Mọi tuyến đường vòng vèo, tun hút, ko 1 bóng người qua lại: “Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”. Cảnh vật êm ả, thoáng 1 nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” tới “chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”, từ “sóng biếc” tới “lá vàng”, từ”tầng mây lửng lơ tới “ngõ trúc vòng vèo” hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc thoáng chút bâng khuâng, man mác, mà rất thân cận, thân thiện với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh tự nhiên của mùa thu quê hương sao dễ thương thế! Cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là ở 2 cấu kết: “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. “Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá cũng là 1 tâm thế nhàn của thi sĩ đã thoát vòng lợi danh. Cái âm thanh”cá đâu đớp động”, nhất là từ “đâu” gợi lên sự mơ hồ, xa rời và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là thi sĩ, 1 ông quan mập triều Nguyễn, yêu nước thương dân mà bất lực trước thời cục, ko cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên 1 nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá mà tâm hồn thi sĩ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại lúc”Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm ả, tĩnh mịch như chính nỗi lòng của thi sĩ vậy – buồn lẻ loi và trống trải. Âm thanh tiếng cá”đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi trội quang cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như xoành xoạch vấn vít với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như 1 bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời xoa dịu ở tự nhiên, ở sắc “vàng” của lá thu, ở màu”xanh ngắt” của bầu trời thu, ở làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”… Thật vậy, “Thu điếu” là 1 bài thơ tả cảnh ngụ tình rất rực rỡ của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được mô tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ gần xa, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa”vèo” trong làn gió thu, tiếng cá”đớp động” chân bèo – đấy là tiếng thu dân dã, quen thuộc của đồng quê đã khêu gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương quốc gia. Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất lạ mắt. Vần “eo” đi vào bài thơ rất thiên nhiên dễ chịu, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong vắt – nhỏ tẻo teo – đưa vèo – vắng teo – chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”… Thơ là sự làm mới tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu tự nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê . Ông là thi sĩ của làng cảnh Việt Nam. Đọc”Thu điếu”,”Thu vịnh”,”Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm thôn ấp đồng nội, quốc gia. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương quốc gia. Nguyễn Khuyến là thi sĩ kiệt xuất đã chiếm 1 địa vị vang dội trong nền thơ ca cổ đại Việt Nam. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 6 Trời vào thu với màu sắc thê lương u ám, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ khấc, não nuột. Mùa thu có nhẽ khiến cho người ta bâng khuâng hoài cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng vô tận cho người nghệ sĩ. Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu hoàn hảo chứa chan trong những trang thơ của bao lứa tuổi. Nhắc tới mùa thu chẳng thể ko nói đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến – 1 bức tranh mùa thu nhưng Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèoTầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teoTựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo. Tiếp xúc với bài thơ điều trước tiên cho ta ấn tượng là mật độ hiện ra vần “eo” trong bài thơ. Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả 7 tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để mắt tới dò la trong tiếng Việt thì ta sẽ phát xuất hiện 1 điều thú vị là vần “eo” trong tiếng nói của ta thường khiến cho ko gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái phạm vi bé nhất của nó. Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” đó. Nước hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong vắt”. Khoảng trống bao la khiến cho chiếc thuyền câu bé nhỏ lại càng bé nhỏ thêm lúc nó được tác giả thấy rằng “nhỏ tẻo teo”. Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ tới 2 câu thơ của Trần Đăng Khoa: Ngoài thềm rơi chiếc lá đaTiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, khiến cho ta thấy hình như tiếng rơi đó nó ko là hiện thực nhưng nó đang diễn ra trong tiềm thức của thi sĩ. Chiếc lá đó của thi sĩ làng Yên Đỗ và Trần Đăng Khoa như là ảo giác. Trong cái ảo giác đấy, người đọc và cả tác giả hình như ko kiểm soát kịp nó có thật hay ko nữa. Bức tranh mùa thu tới đây khẽ biến chuyển dưới nét phác họa của thi sĩ. Qua 2 câu đề của bài thơ bức tranh mùa thu ko được đặt trong ko gian bao la như ở “Thu vịnh” nhưng nó bị giới hạn lại trong cái khuôn khổ bé nhỏ của “ao thu”. “Ao thu” 2 tiếng đó có vẻ gì đấy là lạ, đặc trưng. Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự bé nhỏ khác lạ của nó. Toàn bộ khung ảnh được vẽ lên như 1 bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy. Nó có 1 cái gì đấy ngồ ngộ, cute và cuốn hút lạ lùng. Nó thu tóm toàn thể ko gian, làng cảnh Việt Nam im lìm, tĩnh mịch mà lại ẩn chứa 1 nhựa sống mãnh liệt. Tới đây ko gian được mở mang ra, thi sĩ đã đi lại điểm nhìn từ khoảng gian bé nhỏ của “ao thu” hướng về ko gian bự của bầu trời. Ở ấy thi sĩ bắt gặp: “Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt” Cái động từ “lửng lơ” như gợi cho ta 1 cảm giác về 1 đi lại nhưng ngỡ như là đứng yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí 1, bập bềnh trong bầu trời thu xanh ngắt. Cái đi lại của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa thu. Trở lại câu thơ: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” Ta thấy nó có 1 cái gì đấy dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” hiện ra khiến cho cảnh vật nó như mơ hồ, khó nhưng nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta 1 dạng hình của sóng. Nó ko ầm ĩ dữ dội như sóng biển nhưng có nó lăm tăm lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu như trầm mình trong cái êm ả, u tịch đó. Có 1 câu châm ngôn cho rằng: ko có 1 vẻ đẹp tuyệt vời nào nhưng ko mang đôi nét kì quái. Cho nên câu thơ: “Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo” Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt mà bức tranh mùa thu ở đây vẫn có 1 nét đẹp rất nên thơ, bình an và trong trắng. Con người thân thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn: “Tựa gối buông cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo” Thế câu “Tựa gối ôm cần” thật lạ. Nó như thú nhận rằng thi sĩ đang lo nghĩ về 1 việc gì đấy rất dữ dội, nó như đang xâu xé lấy ông. Phcửa ải chăng đấy chính là nỗi buồn thời cục, nỗi buồn nhưng tới cuối đời thi sĩ vẫn ko hả giận được phần nào. Xong xuôi bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật mạnh của cụm từ “đâu đớp động”. Tạo ra 1 nét đối chọi trong bài thơ: Cảnh vật ở trên được mô tả là 1 bức tranh yên ắng tới hoang vắng thì tới cuối bài thơ nó như khởi đầu tiếp thu được nhựa sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng làm cho bài thơ im ắng cực kỳ. Ba tiếng “đâu đớp động” chõi lên 1 chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần “eo”. Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn đạt cái tĩnh khiến cho cảnh vật trong bài thơ càng tĩnh mịch hơn, nỗi buồn như bao trùm cả 1 quang cảnh bao la. Bài thơ còn mang trong nó 1 sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu. Tất cả như hòa quyện vào nhau khiến cho bài thơ hình thành 1 bức tranh hài hòa hợp lý, có 1 màu sắc rất riêng của Việt Nam. 1 chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu 1 vẻ đẹp mới lạ. Đọc “Câu cá mùa thu” ta càng yêu thêm tổ quốc xứ sở đất Việt này. Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp tự nhiên của Việt Nam trong bao bất định xô bồ của cuộc đời này. Có cần chăng nhiều khi lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức “Thu điếu” để thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương quốc gia, yêu tiếng Việt trong trắng và giàu đẹp này hơn nữa … Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 7 Đi câu là 1 cái thú thanh lịch của các bậc trí giả. Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để chờ thời. Ngồi trên bờ người nào nhưng nghĩ tới chuyện 5 châu 4 biển, nghĩ tới sự thế điên đảo. “Cá ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ” (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha – Trung Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với tự nhiên, suy tư trong hiện trạng thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các cảm quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá cũng chuyên chú, cũng bồn chồn, cũng ham mê. Kết quả của cuộc chơi đó là ông đã được 1 bài thơ “Thu điếu” vào loại tuyệt bút của nền văn chương giang sơn: Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo.Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt.Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo.Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với 1 ko gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả, trong 1 cái ao bé với chiếc thuyền câu nhẹ tênh thênh: Ao thu lạnh lẽo nước trong vắt,1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo. Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngôn từ. Cảm giác của thi nhân thì hiện lên sắc sảo và tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong vắt” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê. Làng Bùi của thi sĩ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao bé. Ao bé thì thuyền câu cũng bé theo “nhỏ tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy nhưng câu thơ lưu loát thiên nhiên như ko, như ko có chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã xuất hiện ấy nhưng người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhớ gì cả. Người đi câu còn mê mải với trời nước của mùa thu: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo. Ao thu ko còn yên ắng nữa nhưng đã nổi sóng với 2 thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và 2 thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng bé vì ao bé, lại là trong chỗ khuất. Gió nhẹ, gió heo may mùa thu. Sóng lại có màu sắc, “sóng biếc” thật đẹp. Ngòi bút của tác giả tinh tế tới từng cụ thể bé. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc biệt của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, chuyển di của chiều dọc tương hợp với chuyển di của chiều ngang thật tài tình. Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong vắt. Cái màu vàng của mùa thu nhưng bao lăm thi nhân đã ca ngợi: Con nai vàng ngơ ngácĐạp trên lá vàng khô (Lưu Trọng Lư) Vàng rơi! Vàng rơi! Thu bát ngát. (Bích Khê) Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có 1 màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc. Nhà thơ mở ko gian lên chiều cao hình thành ko khí hào phóng và ko gian được mở mang nên bức tranh “Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc: Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt,Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Màu da trời “xanh ngắt” thật là đẹp, màu xanh rớt nhưng khẩn thiết. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây ko trôi nhưng “lửng lơ” những áng mây trắng “lửng lơ” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là yên bình. Rồi tác giả lại trở về cận cảnh với hình ảnh của làng quê. “Ngõ trúc vòng vèo”, đường làng vòng vèo quen thuộc với bóng tre trùm mát mẻ. Nhưng bao giờ trong thơ Nguyễn Khuyến tre cũng nói là trúc, “Cần trúc lưa thưa gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo”. Nguyễn Khuyến thích cái hình thể loại cây chí khí đó “Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Những nét trúc thẳng đối lập với những nét vòng vèo của đường làng thật là gợi cảm. Trời lạnh, đường quê vắng ngắt, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các nhà thơ thích mô tả cảnh thu trong yên ắng, đẹp, mà buồn. Sau Nguyễn Khuyến, thi sĩ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết: Đã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đò (Đây mùa thu đến) Bài thơ chấm dứt với hình ảnh của người đi câu như 1 nét tự họa: Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, hình như để tương hợp với khung ao bé, với chiếc thuyền “nhỏ tẻo teo”. Người đi câu đang đắm chìm trong suy tư thì 1 cử động đã khiến cho thi sĩ sực tỉnh: Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) mô tả 1 chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình. Có quan điểm cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đấy hết lời ca ngợi cả 2 ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thơ chỉ muốn tan hòa vào tự nhiên, vào nước non. Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã soạn sửa cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, ao bé, chiếc thuyền “nhỏ tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với tự nhiên, tan hòa với nước non. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn nhất trí với người nào đấy là chuyện riêng. Tôi nhất trí với Nguyễn Khuyến. Trong chùm thơ bài viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu được chọn 1 bài thì đấy là bài “Thu điếu”. Bài thơ “Thu điếu” là tuyệt bút trong nền thơ cổ đại giang sơn. Bức tranh mùa nhận được mô tả bằng những hòa sắc tinh tế, những đường nét gợi cảm. Nhạc điệu cũng lạ mắt. vần gieo hiểm hóc nhưng thiên nhiên, hồn nhiên. Theo Xuân Diệu, cả bài thơ ko còn lép chữ nào. Thật là 1 nghệ sĩ cao thâm. Cái tình của thi sĩ cũng theo kịp cái tài. Cái tình của thi sĩ đối với quê hương làng cảnh, với tổ quốc quốc gia thấm trong mỗi chữ mỗi lời làm xúc động hết thảy mỗi tâm hồn Việt Nam. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 8 Mùa thu vốn là 1 đề tài không xa lạ trong thơ ca Việt Nam. Thu thường đem đến cho nhà thơ 1 nỗi buồn man mác, gợi nhớ hay nhớ tiếc về 1 cái gì đấy xa xăm, đầy kín đáo. Nghe đâu ko người nào vô tình nhưng ko nhắc đến cảnh thu, tình thu lúc đã là nhà thơ! Tới với Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ thấy được điều đấy. Cảnh mùa thu trong thơ ông chẳng hề là mùa thu ở bất kỳ miền nào, thời nào, nhưng là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ khi bấy giờ. Chỉ với bầu trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong vắt” của ao cá (Thu điếu), và cái “lưng giậu phơ phất màu khói nhạt, làn ao óng ánh bóng trăng loe” (Thu ẩm). Nguyễn Khuyến đã làm si mê lòng bao lứa tuổi! Khi nhận xét về bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu có viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, mà ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Vậy ta thử mày mò xem thế nào nhưng “Thu điếu là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”? Ví như ở Thu vịnh, mùa nhận được Nguyễn Khuyến đón chờ từ cái ko gian khoáng đãng, bát ngát, mênh mông, với cặp mắt hướng thượng, khám phá dần các tầng cao của mùa thu để thấy được: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”, thì ở Thu điếu, thi sĩ ko tả mùa thu ở 1 quang cảnh tự nhiên phổ quát, chẳng hề là trời thu, rừng thu hay hồ thu, nhưng mà chỉ gói gọn trong 1 ao thu: ao chuôm là đặc điểm của vùng đồng chiêm trũng, vùng quê của Nguyễn Khuyến: Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo Câu thơ đầu còn đó 2 vần “eo”, câu thơ trình bày sự co lại, đọng lại ko nhúc nhắc, cho ta 1 cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh 1 cách lạ lùng. Không có từ “lẽo” và từ “veo” cũng đủ cho ta thấy cảnh tĩnh, mà thêm 2 từ này lại càng thấy cảnh tĩnh hơn nữa. Khung ao tuy bé mà tác giả lại ko bị giới hạn nhưng mở mang ra nhiều chiều, trong cái ko khí se lạnh đấy hình như khiến cho làn nước ao ở độ giữa thu, cuối thu như trong trẻo hơn. Những tưởng trong “ao thu lạnh lẽo” đó, mọi vật sẽ ko hiện ra, thế nhưng thật bất thần: Khung ao ko trống trải nhưng có “1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”. Có quang cảnh tự nhiên và có vết tích của cuộc sống con người, khiến cảnh thu thêm được phần nào ấm êm. Chiếc thuyền “tẻo teo” trông thật dễ nhìn. Câu thơ đọc lên, khiến cho nhân vật mô tả trở thành thân cận và thân tình biết bao! Với 2 câu bắt đầu, thi sĩ sử dụng những từ ngữ gợi hình ảnh, tạo độ gợi cao: “lẽo”, “veo”, “tẻo teo” đem đến cho người đọc 1 nỗi buồn man mác, cảnh vắng ngắt, ít người qua lại. Và rồi hình ảnh: Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo Càng khiến cho ko khí trở thành yên ắng hơn, thi sĩ đã dùng cái động của “lá vàng trước gió” để mô tả cái tĩnh của cảnh thu làng quê Việt Nam. Những cơn gió mùa thu đã hiện ra và mang theo cái lạnh trở về, khiến ao thu ko còn “lạnh lẽo”, ko còn yên ắng nữa vì mặt hồ đã “gợn tí”, “lá vàng khẽ đưa vèo”, cảnh vật hình như đã khởi đầu chỉnh sửa hẳn đi! Cơn “sóng biếc” bé “hơi gợn tí” và chiếc lá “trước gió khẽ đưa vèo” tưởng như tranh chấp với nhau, mà thật ra ở đây Nguyễn Khuyến đã quan sát kĩ theo chiếc lá bay trong gió, chiếc lá rất nhẹ và thon thon hình thuyền, động dao liệng đi trong ko gian, rơi xuống mặt hồ yên tĩnh. Quả là phải có 1 tâm hồn yêu tự nhiên, yêu cuộc sống thật thâm thúy thì Nguyễn Khuyến mới có thể cảm thu được những âm thanh tinh tế, tưởng dường như chẳng người nào để mắt tới tới như thế! Như trên đã nói: bắt đầu bài thơ, tác giả thử dụng vần “eo” mà tác giả ko bị giới hạn nhưng đã mở mang ko gian theo chiều cao, hình thành sự hào phóng, phổ quát cho cảnh vật: Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo Bầu trời thu xanh ngắt lâu nay vẫn là tượng trưng đẹp của mùa thu. Những áng mây ko trôi nổi bay khắp bầu trời nhưng “lửng lơ”. Trước đây Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với: Long lanh đáy nước in trờiThành xây khói biếc non phơi bóng vàng Nay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra ko gian rộng, cảm hứng Nguyễn Khuyến lại trở về với quang cảnh làng quê không xa lạ cũng vẫn hình ảnh tre trúc, vẫn bầu trời thu ngày nào, vẫn ngõ xóm vòng vèo… tất cả đều thân yêu và nhuốm màu sắc thôn dã Việt Nam. Chỉ tới với Nguyễn Khuyến, chúng ta mới thấy được những nét quê yên ắng, yên ả tương tự. Trời sang thu, ko khí lạnh buốt, đường làng cũng vắng ngắt. “Ngõ trúc vòng vèo” cũng “vắng teo” ko bóng người qua lại. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây mùa thu đến cũng đã bắt được những nét tiêu biểu đấy của sông nước ở vùng quê, lúc trời đã khởi đầu bước vào những ngày lạnh buốt: Những luồng run rẩy rung chuyển láĐã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đòCành biếc run run chân ý nhi (Thu) Thế rồi trong cái ko khí se lạnh đấy của thôn dã, những tưởng sẽ ko có bóng vía của con người, đó vậy nhưng thật bất thần đối với người đọc: Tựa gối buông cần, lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo. Hai câu thơ chấm dứt đã góp phần biểu lộ đôi nét về chân dung tác giả. Tôi nhớ ko lầm hình như đã có tài liệu cho rằng: “tựa gối, ôm cần lâu chẳng được”, “ôm” chứ chẳng hề là “buông”. Theo Việt Nam từ điển thì “buông” hay hơn, thích hợp với tính cách của thi sĩ hơn. Trong những ngày từ quan lui về ở ẩn, mùa thu câu cá, đấy là niềm vui của thi sĩ nơi làng quê để giải trí trong công tác, để hòa mình vào tự nhiên, nhưng quên đi những bận tâm với non sông, cho tâm hồn thanh thản. “Buông”: buông lỏng, đi câu ko cốt để kiếm cái ăn (hiểu theo đúng nghĩa của nó), nhưng để tiêu khiển, do đó “ôm” không liên quan với tình cảnh. Từ “buông” đem đến cho câu thơ hiệu quả nghệ thuật cao hơn. Tóm lại, qua Thu điếu, ta phần nào thấy được tấm lòng của thi sĩ đối với tự nhiên, đối với cuộc sống: chỉ có những ao bé, những “ngõ trúc vòng vèo”, màu xanh của bầu trời, cũng đã làm si mê lòng người. Thì ra mùa thu ở thôn dã chẳng có gì là lạ lẫm, mùa thu ở thôn dã chính là cái hồn của cuộc sống, cái duyên của nông thôn. Câu cuối này là thú vị nhất, vừa gợi được cảm giác, vừa bộc lộ được cuộc sống thơ ngây nhất với sự việc sử dụng những âm thanh rất trong trẻo có thuộc tính vang ngân của những cặp vần, đã chiếm được thiện cảm của bạn đọc, đã đọc qua 1 lần thì khó nhưng quên được. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 9 Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông 1 lòng ko hiệp tác với địch thủ. Ông được mệnh danh là “thi sĩ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc trưng là chùm 3 bài thơ thu tiêu biểu cho làng quê, cảnh quan Việt Nam. Trong đấy nổi trội hơn cả là bài Câu cá mùa thu. Ví như ở bài Thu vịnh cảnh nhận được đón chờ từ cao xa rồi mới tới gần thì bài Câu cá mùa thu quang cảnh tự nhiên mùa thu lại được đón chờ ở 1 chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Khung cảnh được mở ra với nhiều chiều hướng cực kỳ sinh động. Cảnh nhận được mở ra với hình ảnh ko gian vô cùng trong trẻo: Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo Không khí mùa nhận được gợi nên từ sự dịu nhẹ, sơ khai nhất của cảnh vật với làn nước trong vắt, ko 1 gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa bự với dòng nước đỏ đục đã ko còn thay vào đấy là cái thanh vắng, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong ko gian bé hẹp đó là hình ảnh của chiếc thuyền câu mà nó chẳng phải lọt thỏm giữa ko gian tự nhiên nhưng mà rất hài hòa, tương hợp. Tác giả vẽ ra quang cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, mà kì thực chúng lại hòa quyện với nhau tới kì dị. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ chẳng hề hồ thu – gợi cảm giác bao la, choáng ngợp. Ao thu đó lúc có thuyền câu kế bên trở thành hài hòa, tương hợp và đậm chất quang cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo mà chẳng phải gợi lên cảm giác hạn hẹp, bé nhỏ, tù túng nhưng trái lại gợi nên cái bé nhắn, thanh thoả của cảnh vật. Bức tranh thu tiếp diễn được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo: Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo Những đường nét của quang cảnh cũng vô cùng mảnh khảnh với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, hình như mọi đi lại đều cực kỳ nhẹ nhõm, thanh thoả. Áp dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi trội sự yên ắng tuyệt đối của ko gian, của cảnh vật. Phcửa ải là ko gian cực kỳ yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng cảm quan tinh tế, mẫn cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng giây phút của tự nhiên. Sắc vàng ví như ở những bài thơ khác chính là sắc màu cốt yếu, là điểm nổi bật để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng đó cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong vắt của nước,… nó chỉ góp phần hình thành đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên ko gợi cảm giác buồn phiền của tâm cảnh, hay héo úa của cảnh vật. Không chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn được gợi lên từ những ngõ trúc vòng vèo: Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo Không gian được mở mang ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm thu được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất thiên nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc vòng vèo. Không gian mùa thu cực kỳ yên ắng. Mọi đi lại đều quá nhẹ nhõm, êm ái ko đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đấy liên kết với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái tĩnh lặng, u tịch của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh vắng tuyệt đối của làng quê Việt Nam trong cảnh ghi âm bình, dịu nhẹ. Bài thơ có đầu đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá nhưng thực lại chẳng hề vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh vắng tới tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ vẻ đẹp của mùa thu: trong vắt, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc trưng sự yên ắng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên 1 cách thâm thúy từ tiếng động độc nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự yên ắng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự lẻ loi, khúc mắc trong tâm hồn thi sĩ. Trong bài các gam màu lạnh hiện ra nhiều: trong vắt, xanh ngắt,… hình như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn thi sĩ hay chính tâm hồn lẻ loi của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Đặt trong bối cảnh quốc gia đầy biến thiên khi bấy giờ, có thể thấy bài thơ trình bày tâm cảnh âu sầu của Nguyễn Khuyến trước hiện tình quốc gia đầy đau thương. Bài thơ trình bày tài năng sử dụng tiếng nói bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong trắng, giản dị mà lại diễn đạt được tất cả những gì tinh tế, xinh tươi nhất của cảnh vật, diễn đạt được tâm cảnh và tấm lòng của thi sĩ. Gieo vần “eo” – từ vận tài tình góp phần mô tả ko gian bé hẹp và tâm cảnh đầy khúc mắc của tác giả. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái yên ắng tuyệt đối của tự nhiên. Bài thơ Câu cá mùa thu với tiếng nói bậc thầy ko chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Nhưng đằng sau đấy ta còn cảm thu được 1 tâm hồn gắn bó khẩn thiết với tự nhiên, quốc gia, tấm lòng yêu nước lặng thầm mà ko kém phần sâu nặng. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 10 Viết về đề tài mùa thu ví như ở văn chương Trung Quốc có “Thu hứng” của Đỗ Phủ là điển hình và rực rỡ thì nền văn chương dân tộc Việt chẳng thể ko nói đến chùm thơ thu của cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Chùm thơ thu gồm 3 bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” mùa thu hiện lên qua cái nhìn đa tình của thi sĩ. Đặc trưng là bài thơ“Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mang nét rực rỡ riêng “tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”, đằng sau cảnh thu, tình thu là tâm cảnh, nỗi niềm thầm kín của tác giả. Nguyễn Khuyến là người học rộng tài cao 3 lần đỗ tú tài và ra làm quan dưới triều vua Tự Đức, chứng kiến “từng bước cơn lâm chung” của cơ chế phong kiến thối nát. Ông ko chịu hiệp tác với giặc, muốn giữ mình thanh bạch nhưng đã về ở ẩn sau hơn mười 5 làm quan. Chùm thơ nhận được Nguyễn Khuyến sáng tác sau lúc về ẩn cư nơi quê nhà. “Thu điếu” cũng như 2 bài thơ thu đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật bằng tiếng nói dân tộc chữ Nôm. Toàn bộ cảnh thu, tình nhận được mô tả hiện lên rõ nét trong 8 câu thơ. Bắt đầu bài thơ là ko gian, thời kì của mùa thu ở làng quê Bắc Bộ: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo” Không gian ở đây là ao thu. Ao là đặc biệt của vùng quê chiêm trũng quê hương của tác giả. Thời gian chẳng hề là đầu thu có chút oi ả xen lẫn của mùa hạ nhưng có nhẽ là khi phân thu nên mới có hơi lạnh của sự “lạnh lẽo”. Tính từ “Trong veo” đặc tả độ trong của nước hình như có thể nhìn xuyên thấu xuống bên dưới, nó gợi ra sự thanh bạch và yên ắng trên bề mặt ao. Tính từ “lạnh lẽo” như càng khiến cho sự tĩnh mịch ngày càng tăng. Không chỉ vậy “1 chiếc thuyền câu” số từ chỉ số ít “1 chiếc” cộng với tính từ “nhỏ tẻo teo” gợi sự bé nhỏ tới cực kỳ. Chiếc thuyền câu như co lại là 1 chấm trên nền của ao thu. Tác giả thử dụng nghệ thuật chấm phá điểm nhãn. Trên cái nền yên tĩnh của mặt ao hiện ra 1 chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo. Hai câu thơ đầu đã mở ra 1 ko gian thu với cảnh sắc rất mộc mạc, giản dị mang nét đặc biệt chất thu, khí thu của làng quê Bắc Bộ. Ví như ở 2 câu đề nổi trội lên là sự yên ắng thì 2 câu thực đã mang những nét chuyển di mà nó lại động để tĩnh. Lấy cái động của cảnh vật nhưng tả cái tĩnh của mùa thu chốn thôn dã. “Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo” Hai hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng” tưởng dường như ko có mối liên hệ nhưng có 1 sự logic, chặt chẽ với nhau. Vì gió thổi khiến cho sóng gợn, lá rơi. Cảnh vật đi lại không phải ồ ạt của lá mùa thu như trong thơ Đỗ Phủ nhưng nó thật khẽ khàng, nhẹ nhõm sóng chỉ hơi gợn tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ” được sử dụng thật tài tình, liên kết với nhau hình thành màu sắc, hình ảnh khiến cho cảnh thu trở thành chân thật có hồn. Chữ “vèo”làm cho Tản Đà bái phục, tâm đắc cực kỳ. Ông giãi bày 1 đời thơ, ông mới có được 1 câu thơ hợp ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là 1 con người có 1 tâm hồn tinh tế, mẫn cảm mới có thể cảm thu được sự đi lại nhưng như tĩnh tại. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng thành công mang đến hiệu quả cao. Không gian cảnh vật ko chỉ bó hẹp trong vòng ko của mặt nước, của ao thu nhưng được mở mang ra 2 chiều với 1 tầm nhìn cao hơn, xa hơn. Ấy là cái nhìn toàn cảnh bao quát lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu sắc thoáng đạt: “Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo” Bầu trời xanh ngắt vẫn luôn là tượng trưng đẹp của mùa thu, có lần Nguyễn Du đã từng viết: “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” Bầu trời xanh trong, cao thẳm của “Thu điếu” có sự nhất quán với ko gian mây trời của “Thu vịnh” “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” hay trong “Thu ẩm” với “Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt”. Mây trời trong “Thu điếu” ko trôi nhưng “lửng lơ” gợi 1 cảnh thu đẹp và yên tĩnh như ngưng đọng lại trên khoảng ko rộng lớn, bao la. Chiều sâu ko gian được chi tiết hóa bằng độ “vòng vèo” của ngõ trúc. Hình ảnh cây trúc hiện ra khá nhiều trong thơ của ông, nhìn nói chung nó mang 1 nét tĩnh mịch và đượm buồn nhưng Nguyễn Khuyến đã viết: “Dặm thế ngõ trúc đâu từng đó/Cần trúc lưa thưa gió hắt hiu”. Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên sắc màu của ko gian. Cảnh vật trở thành tĩnh mịch, cô liêu, hiu hắt với tính từ “vắng teo” nghĩa là vắng vẻ, vắng vẻ ko 1 bóng người cùng lúc cũng cho thấy sự khoáng đãng, trong sạch của ko gian nơi đây. Sự ảnh hưởng của ngoại cảnh khiến cho con người ko khỏi động lòng nhưng lẻ loi. Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi cô độc của đời mình: “Đời loạn đưa về như hạc độc/Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm hứng). 6 câu thơ đầu là sự mô tả về cảnh vật, về mây trời nước non mùa thu. Tới 2 cấu kết ta mới thấy sự hiện ra của con người. Cái ý vị nhất của bài “Thu điếu” nằm ở 2 câu cuối: “Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo” Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ hiện ra với tư thế ngồi bó giò buông cần thả câu hình thành 1 đường nét bất động trên bức tranh thu yên ắng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng tâm thế như đặt ở nơi nào ko để ý tới việc câu để rồi giật thột trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. 1 lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công. Tiếng cá đớp hình thành đi lại bé cũng làm cho thi sĩ giật thột thức giấc tựa mộng mị nó gợi lên sự yên ắng, u tịch tới cực kỳ. Cách hỏi “cá đâu” thật rực rỡ hình thành sự mơ hồ trong ko gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của người điếu ngư. Hình ảnh đó làm cho ta liên tưởng tới cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thung dung ngồi uống rượu dưới gốc cây: “Rượu tới cội cây ta sẽ uốngNhìn xem phú quý tựa mộng mị” Thực ra, câu cá chỉ là cái cớ để Nguyễn Khuyến mô tả bức tranh thu, qua đấy thi sĩ biểu lộ tâm hồn và tâm cảnh của mình. Hình ảnh người đi câu cá có thể khiến ta liên tưởng đến con người nhà thơ, nho sĩ trước tình hình quốc gia khi bấy giờ. Theo kinh nghiệm của dân gian nước trong thì ko có cá mà tiếng cá đớp động chân bèo đã tiếp thêm động lực cho người điếu ngư ko nản lòng nhưng tiếp diễn công tác của mình. Cũng giống tương tự chính trị nước ta bấy giờ rối ren, thực dân Pháp xâm lăng, triều đình nhà Nguyễn phản kháng yếu đuối nhưng mau chóng thỏa hiệp để hồn nước rơi vào tay giặc. Nhà thơ vì muốn bảo toàn khí tiết nên chọn lọc tuyến đường về ở ẩn noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay cụ Đào Tiềm Đào Uyên Minh bên Trung Quốc 1 đời quyết giữ để mình thanh bạch. Tuy nhiên, âm thanh cá đớp động như đánh thức nhà Nho, nhà chí sĩ yêu nước như thức tỉnh thôi thúc ông đứng lên tranh đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nhưng âm thanh đó thật mơ hồ cũng như trằn trọc trong lòng thi sĩ liệu rằng mình có thể cống hiến giúp đời hay là bất hiệp tác với giặc lánh mình ẩn cư. Như vậy Nguyễn Khuyến ko chỉ biểu lộ những tình cảm yêu quý tự nhiên, quê hương quốc gia nhưng còn bí mật bộc bạch nỗi buồn trong trắng mà lẻ loi của 1 ẩn sĩ, tuy nặng lòng yêu nước mà cam phận đành bất lực trước thời thế chọn lọc tuyến đường lánh đục về trong. Nguyễn Khuyến là 1 trong những đại diện bự nhất và của văn chương trung đại Việt Nam ở quá trình cuối thế kỉ XIX. Thơ ông là sự liên kết tài tình giữa tinh hoa văn chương bác học với văn chương dân gian. “Thu điếu” là 1 trong những bài thơ hay và rực rỡ với sự thành công của văn pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, chấm phá điểm nhãn, sử dụng các từ láy có tính gợi hình, gợi cảm cao đặc trưng là cách gieo vần “eo” thật tài tình. Bài thơ được tuân theo đúng niêm, đúng luật của thể thơ vừa mang tính quy phạm của thơ ca trung đại cũng tiến hành giải quy phạm với những thông minh mới ko còn sử dụng những hình ảnh ước lệ, biểu trưng nhưng thay vào đấy là sự mộc mạc, chân chất của đời sống nông thôn. “Thu điếu” cộng với 2 bài thơ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đã góp phần làm nên sự phong phú và rực rỡ cho đề tài viết về mùa thu của nền văn chương dân tộc với nét đặc biệt là sự yên ắng, yên bình với những hình ảnh bình dị của làng quê. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 11 Nguyễn Khuyến được biết tới nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.3 bài thơ bằng tiếng Nôm 1 trong số đấy chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là 1 nét thu đẹp yên ắng nơi làng quê thời xa xưa, biểu hiện 1 nét lẻ loi trong tâm hồn 1 nhà Nho yêu quê hương yêu quốc gia thời bấy giờ. Sau khoảng thời kì ông từ quan về quê nhà, 1 loạt những tác phẩm có mặt trên thị trường như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”. Bắt đầu bài thơ là 2 câu thơ “Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo” Chỉ cần đọc 2 câu thơ ta có thể hình dung ra cảnh sắc mùa thu, 1 ko gian nghệ thuật đang bao trùm bao quanh chúng ta. Nước trong vắt của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, 1 ko khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp ko gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa nhưng là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo tương tự. Không biết từ bao giờ nhưng trong lòng ao đã hiện ra 1 chiếc thuyền câu giữa ko gian rộng lớn bao la hình như sự lẻ loi của chiếc thuyền đang lan tỏa rộng ra khắp ko gian. Nhỏ tẻo teo tức là rất bé bỏng; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong vắt – nhỏ tẻo teo). Ấy là 1 nét thu đẹp và êm ả. Tiếp đấy cùng bước vào toàn cầu nghệ thuật của 2 câu thơ tiếp theo: “Sóng nước theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo” Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật bao quanh theo ko gian 2 chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Hết sức mộc mạc giản dị mà cũng có thể cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc được tác giả mô tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ khiến cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, khiến cho sóng biếc lăm tăm từng làn từng làn hơi gợn tí. Ngoài ra kế bên đấy tác giả còn liên kết sử dụng phép đối 1 cách cực kỳ tài tình tạo điều kiện cho nét nhận được nhấn mạnh giúp người đọc có thể tưởng tượng ra ko gian nhưng tác giả đang mô tả như đang ở trước mặt mình 1 cách cực kỳ sống động và rõ nét. Phcửa ải xác nhận 1 điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến cực kỳ tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăm tăm của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là 1 nhân tự nhưng sau này nhà thơ Tản Đà vừa bái phục, vừa tâm đắc. Ông giãi bày 1 đời thơ mới có được 1 câu hợp ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa ngừng lại ở ấy Nguyễn Khuyến còn giúp chúng ta mở mang tầm mắt hơn ở 2 câu thơ tiếp theo: “Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo” 1 bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm rộng lớn và bao la đang bao trùm lấy ko gian nơi đây. Những áng mây đang lẳng lặng trôi trên bầu trời bao la như đang nhấn mạnh sự bao la của ko gian nơi đây. Thoáng đãng, êm ả, yên ắng và nhẹ nhõm. Không 1 bóng người lại qua trên tuyến đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Vắng teo tức là cực kỳ tĩnh mịch ko 1 tiếng động bé nào, cũng gợi tả sự lẻ loi, trống trải. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ khi nào cũng gợi tả 1 tình quê nhiều bâng khuâng, man mác: Dặm thế, ngõ đâu từng trúc đóThuyền người nào khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi) Có nhẽ 1 trong những sự vật không xa lạ với hình ảnh làng quê đấy là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng hiện ra rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể mô tả 1 cách cực kỳ sống động tương tự được. Tới 2 cấu kết thì bức tranh thu mới hiện ra 1 nhân vật khác: “ Tựa gối ôm cần lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo” Thu điếu tức là mùa thu câu cá. 6 câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá tới tận phần mới thấy hiện ra với 1 tư thế tựa gối ôm cần cực kỳ thanh nhàn. Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được tự dưng tác giả tự dưng chợt tỉnh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự kì vọng đã từ rất lâu mãi tới hiện thời đã có 1 chút kết quả. Người câu cá như đang ko ân cần tới mọi thứ tạp niệm chỉ hòa mình vào trong ko gian hiện thời, trong cảnh sắc cực kỳ tuyệt đẹp, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về 1 Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy ngàn 5 về trước. Chỉ có 1 tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đấy là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh đó hòa quyện với 1 tiếng trên ko ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong 1 tâm cảnh lẻ loi và lặng thầm buồn. 1 cuộc đời thanh sạch, 1 tâm hồn thanh cao đáng trọng. Thu điếu là 1 trong những tác phẩm quá hoàn hảo của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng bày tỏ rằng trong Thu điếu có 1 nét diệu xanh nhưng người ta ko tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có 1 màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên ẩn sâu trong cái yên ắng này lại có 1 nỗi buồn man mác của tác giả. 1 tâm thế nhàn hạ và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu khẩn thiết. Mỗi nét thu là 1 sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiện, vần thơ: veo – teo – tèo – teo – bèo, phép đối hình thành sự hài hòa tương hợp, điệu thơ nhẹ nhõm bâng khuâng cho thấy 1 văn pháp nghệ thuật cực kỳ điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu – Mẫu 12 Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng dường như cộng với sự chấm dứt của cơ chế xã hội phong kiến suy vong lỗi thời, nền văn chương Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự tuyệt vọng với 1 phương thức đề đạt đã lạc hậu. Nhưng thật kì dị là trong sự suy thoái tưởng chừng đã tới cực điểm đó lại hiện ra 1 tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như 1 dấu chấm cảm thán khẳng định tính cổ đại có sức biến chuyển lòng người của văn chương trung đại vào quá trình của thời gian văn chương dài hàng chục thế kỷ này. Ông để lại cho quê hương, cho quốc gia 1 di sản văn học phong phú, khổng lồ. Nhưng nhắc đến thi sĩ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là thi sĩ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc trưng là chùm thơ thu của ông, trong đấy có bài thơ Thu điếu: Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teoSóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió sẽ đưa vèoTầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teoTựa gối ôm cần, lâu chẳng đượcCá đâu đớp động dưới chân bèo. Chùm thơ 3 bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy 1 tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã khẳng định là tiêu biểu hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình rực rỡ: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu tự nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương khẩn thiết. Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tiếng nói tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc hoàn hảo dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu: Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo Nhà thơ hầu như ko hứng thú gì với chuyện câu cá nhưng si mê với ko khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu thi sĩ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với thuộc tính lạnh lẽo nước trong vắt thì đấy đúng là ao thu chứ chẳng hề là môi trường phù hợp cho việc câu cá, kế bên đấy cảm hứng của thi sĩ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, 1 cảnh trong và tĩnh hầu hết tuyệt đối, nước trong vắt, trời xanh ngắt, khách vắng teo, cảm quan của thi sĩ cực kì tinh nhậy và phải vô cùng chuyên chú thì mới nhìn thấy được những bộc lộ bé nhặt tinh xảo chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của 1 quang cảnh đầy màu sắc: Sóng biếc theo làn hơi gợn tíLá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ nhưng lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, vận tốc vèo của lá bay tương ứng với chừng độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ngợi ca chữ vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói 1 đời thơ của mình hoạ chăng mới có được câu thơ hợp ý trong bài Cảm thu, tiễn thu: Vèo trông lá rụng đầy sân Tới câu luận: Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắtNgõ trúc vòng vèo khách vắng teo. Không gian được mở mang, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lửng lơ trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận mặt sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời người nào nhuộm nhưng xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt. Xanh ngắt là xanh nhưng có chiều sâu. Trời thu ko mây (xám) nhưng xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của ko gian, cái nhìn vời vợi của thi sĩ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về 4 phía làng quê. Thôn xóm tĩnh mịch, u tịch, tuyến đường vòng vèo, hẻo lánh, ko 1 bóng người qua lại. Ngõ trúc vòng vèo khách vắng teo Cảnh vật êm ả, thoáng 1 nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo tới chiếc thuyền câu nhỏ tí teo, từ sóng biếc tới lá vàng, từ tầng mây lửng lơ tới ngõ trúc… đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất thân cận, thân thiện với mọi người Việt Nam. ……………..

Tải File về để xem thêm nội dung cụ thể

TagsCâu cá mùa thu Nguyễn Khuyến Phân tích Câu cá mùa thu Thu điếu Văn mẫu lớp 11

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Văn #mẫu #lớp #Phân #tích #bài #thơ #Câu #cá #mùa #thu #của #Nguyễn #Khuyến

  • Tổng hợp: Học Điện Tử Cơ Bản
  • #Văn #mẫu #lớp #Phân #tích #bài #thơ #Câu #cá #mùa #thu #của #Nguyễn #Khuyến