Sáng kiến kinh nghiệm lớp 1 theo chương trình mới môn Tiếng Việt
sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn tiếng việt lớp 1Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.91 KB, 15 trang ) Show
MỤC LỤC chắc tri thức cơ bản về tiếng Việt và hình thành đồng thời các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết một cách vững chắc, ngay từ bước làm quen với âm, vần học sinh đã nắm chắc được luật chính tả, học sinh luôn được tham gia các hoạt động học tập một cách chủ động, tự tin; thông qua việc làm, các thao tác học, các em tự tìm ra và chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả năng tư duy và năng lực tối ưu của mình. Đồng thời quá trình dạy học theo phương pháp Công nghệ giáo dục không chỉ giúp GV nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ sư phạm mà cách tổ chức dạy học theo quy trình công nghệ giúp GV đổi mới phương pháp một cách triệt để. Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo... từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình. Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá - giỏi biết vận dụng nghe viết một cách thông thạo. Chính vì những lý do trên mà tôi đưa sáng kiến "Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 – CGD lớp 1” mà trọng tâm là rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh. + Về đọc đúng: HS đọc đúng các phụ âm đầu, vần, thanh, đọc đúng các tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ. + Đọc hay, đọc diễn cảm: HS khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt, nghỉ đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai. 2 + Học sinh hiểu được nôi dung văn bản và thể loại, từ đó có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống. Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh. 2. Tên sáng kiến: "Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt 1 – CGD lớp 1" 3. Tác giả sáng kiến: Dương Thị Lan Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường tiểu học Chiến Thắng – TP Thái Nguyên. Số điện thoại: 0971552392. Email: 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Dương Thị Lan - giáo viên dạy lớp 1 Trường tiểu học Chiến Thắng – TP Thái Nguyên. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Bộ môn Tiếng Việt trong đó chủ yếu là phần rèn đọc cho học sinh lớp 1A, Trường tiểu học Chiến Thắng – TP Thái Nguyên. theo chương trình CGD. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Áp dụng từ tháng 9 năm 2017 đến nay. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Cơ sở lí luận Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về:- Mục tiêu giáo dục - Nội dung và phương pháp dạy học - Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa 3 khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Tập đọc, đặc biệt là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, viết đúng và nói đúng, ... Đọc đúng góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 1 - CGD là những câu chuyện gần gũi, những bài văn, bài thơ hay. Chính vì thế mà các em có vốn văn học phong phú. Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh giữ vai trò chủ đạo trong quá trình học tập, thầy thiết kế - trò thi công. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống phong phú cho học sinh. Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ càng. Nhằm cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu người thân, hiểu và yêu thêm lịch sử Việt Nam. 7.1.2. Cơ sở thực tiễn - Năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A với tổng sĩ số là 40 em, trong đó: + Học sinh đọc lưu loát: 22 em + Học sinh đọc hơi chậm: 16 em + Học sinh đọc còn hay vấp: 02 em + Học sinh không đọc được: 0 em ( Thiểu năng + nhận thức chậm) - Năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A với tổng sĩ số là 42 em, trong đó: + Học sinh đọc lưu loát: 23 em + Học sinh đọc hơi chậm: 17 em + Học sinh đọc còn hay vấp: 02 em + Học sinh không đọc được: 0 em Với đặc điểm của lớp như trên, tôi cũng gặp những khó khăn nhưng cũng có phần thuận lợi như sau: 7.1.2.1. Thuận lợi - Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập. - Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời. 4 - Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình. - Hầu hết các em đều biết các chữ cái khi vào đầu lớp 1. - Đa số các em tiếp thu nhanh. 7.1.2.2. Khó khăn - Là chương trình Tiếng Việt mới nên giáo viên còn mất nhiều thời gian nghiên cứu, đọc tài liệu. - Cách phát âm của một số chữ cái không giống với chương trình hiện hành - Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày sao cho đúng ngữ pháp. - Một số phụ huynh học sinh chưa có thời gian cũng như một số ít phụ huynh không biết chữ nên không thể giúp đỡ các em trong việc học ở nhà, và chương trình Tiếng Việt 1 – CGD là chương trình mới nên phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn khi con cái có thắc mắc muốn cha mẹ giải đáp thì phụ huynh còn lúng túng khó giải đáp. 7.1.3. Thực trạng dạy và học Tiếng Việt 1 - CGD ở trường Tiểu học Chiến Thắng Năm 2017 – 2018 tôi được phân giảng lớp 1A với sĩ số lớp 40 em trực tiếp dạy phân môn Tiếng Việt 1 – CGD. Năm 2018 - 2019 tôi giảng dạy lớp 1ª với sĩ số lớp 42 em. Trong 2 năm từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 10 năm 2018 tôi đã trực tiếp giảng dạy 2 lớp 1 chương trình Tiếng Việt - CGD vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu và thấy được một số thực trạng như sau: 7.2.1. Về phía giáo viên. - Giáo viên có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề và luôn trăn trở về phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 – CGD. - Giáo viên đi đúng phương pháp, sách thiết kế. - Giáo viên có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mỉ. - Giáo viên luôn có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp dạy học. - Giáo viên nắm chắc tiến trình tiết dạy, đi đúng mục tiêu của bài. 7.2.2. Về phía học sinh - Khảo sát đầu năm ( Tháng 9/2017) TSHS Đọc tốt Đọc khá Đọc trung bình Đọc yếu Đọc ngọng 40 14 10 10 5 1 Đọc trung bình Đọc yếu Đọc ngọng - Khảo sát cuối năm ( Tháng 5/2018) TSHS Đọc tốt Đọc khá 5 40 25 10 5 0 0 - Học sinh hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. - Vốn từ của các em còn quá ít ỏi. - Kĩ năng nói và viết chưa thực sự tốt. - Vẫn có em đọc còn ngọng ( l/n, thanh hỏi, thanh ngã...) - Tìm hiểu về nghĩa của từ còn hay lẫn lộn vv... - Một số em yếu khi học sang phần nguyên âm đôi hoặc âm đệm ( vì một kiểu vần lại có cách đánh vần riêng) còn nắm chưa chắc. 7.2.3. Về chương trình Tiếng Việt 1 – CGD - Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác thiếp thu bài, tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức. - Phương pháp mới giúp học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm, chất lượng môn học Tiếng Việt của học sinh đã được nâng lên nhiều so với trước. - Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được tiếng có âm đầu; tiếng có âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính; tiếng có âm đệm, âm chính, âm cuối… Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm, tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn vần hay có khi học sáu vần một ngày đối với HS lớp một là quá nhiều) - Nhiều bài đọc không gần gũi với học sinh nên học sinh khó nhớ. 7.2.4. Những lỗi thường thấy của học sinh lớp1 khi học phân môn tiếng Việt. 7.2.4.1. Lỗi về phát âm * Sai về phụ âm đầu - Đây là lỗi mà nhiều em mắc phải, nguyên nhân này có thể do ảnh hưởng của tiếng địa phương, do nói theo bạn nhiều thành quen( bạn phát âm sai), do bản thân các em chưa kiên trì luyện tập, do bộ phận phát âm chưa hoàn chỉnh vì vậy dẫn đến phát âm không chuẩn từ đó làm cho người nghe hiểu sai ý muốn nói. 6 Ví dụ: “nòng nọc” ý muốn nói đến con “nòng nọc” nhưng lại phát âm là “lòng lọc” làm cho người nghe hiểu sang cái lòng được lọc, dẫn đến sai ý muốn nói. * Sai về dấu thanh - Lỗi về dấu thanh là lỗi HS cũng hay bị mắc nhưng không nhiều bằng lỗi về phụ âm đầu, tuy nhiên lỗi về dấu thanh rất khó sửa, cần nhiều thời gian và kiên trì luyện tập. Ví dụ: “ củ sả” ý muốn nói đến củ sả để nấu ăn, nhưng HS phát âm thành “ cụ sạ” dẫn đến người nghe không hiểu được nghĩa muốn nói. * Sai về vần Lỗi này thường mắc ở một số em do thói quen sử dụng từ ngữ của vùng miền ( rượu – riệu, gãy – gẫy...) Ví dụ: “ cô Thanh” ý muốn nói đến cô tên Thanh nhưng HS lại phát âm lại đọc là “ cô Thăn” làm cho người nghe hiểu lầm sang tên cô là Thăn. 7.2.4.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đọc sai của học sinh tiểu học hiện nay là: Từ việc điều tra, tìm hiểu, tôi thấy việc đọc sai của học sinh lớp 1 chủ yếu tập trung ở một số nguyên nhân sau: Một là: Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về nghĩa của tiếng, của từ, của câu. Hai là: Chưa ý thức được phải phát âm chuẩn thì người nghe mới hiểu hết nghĩa mà mình muốn diễn đạt. Ba là: Do bản thân các em đọc sai lại chưa kiên trì, tự giác tập luyện để sửa sai. 7.2. Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn Tiếng Việt 1 - CGD Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến đọc sai của học sinh lớp 1 theo tôi để khắc phục những hạn chế trên cần chú ý đến một số biện pháp sau: *Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát âm Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi…) 7 Ví dụ: Khi học sinh sai lẫn âm l / n giáo viên cần hướng dẫn: + Âm l: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát. + Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có thể yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ không thể đọc được). Ví dụ: HS sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc thành “at”:, giáo viên cần hướng dẫn: + ac: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. + at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Ví dụ: HS sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng dẫn: - Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ, cử tạ - cự tạ, củ sả - cụ sạ…) + Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. + Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. - Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã (em bé ngã – em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế gỗ - ghế gố…) + Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng. + Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. * Biện pháp 2: Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường “bắt 8 chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết …Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1_CGD việc quan sát môi cô khi phát âm âm mới là rất quan trọng. *Biện pháp 3: Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức mà trong môn Tiếng Việt 1 – CGD thì phương trâm là “ thầy thiết kế - trò thi công”. Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn cho các em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học 9 sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. * Biện pháp 4: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh Rèn cho học sinh có tính kiên trì là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cố gắng thêm tí nữa nhé”, “em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”…được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm được…từ đó học sinh sẽ quyêt tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối tượng này, giáo viên phải thật nghiêm khắc, khen – chê đúng mực để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình cần phải thể hiện hết khả năng của mình. * Biện pháp 5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng việt mà cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất. Người giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi đâu. * Biện pháp 6. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh 10 Giáo viên có thể cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với một số em cá biệt về phát âm, giáo viên có thể gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những quyển truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy em kể lại chuyện. Ngoài ra cần nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như vậy việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu). Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Ngoài ra, người giáo viên hoàn toàn có thể thông qua họp phụ huynh học sinh, qua phiếu phối hợp giáo dục giữa giáo viên và gia đình để hướng cho phụ huynh học sinh có cách dùng từ đúng để sửa đổi. * Biện pháp 7. Tuyên dương, khuyến khích học sinh. Trong năm học 2017 – 2018 và 2018 - 2019 tôi đã áp dụng các biện pháp nêu ở trên để áp dụng rèn đọc cho các em đồng thời cũng thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em ( VD: “ em đã phát âm chuẩn hơn hôm qua rồi, cố lên em nhé”,“ em đã có tiến bộ nhiều hơn rồi, cô khen em”...), cũng có thể bằng hình thức nhận xét vào vở của các em khi chấm vở chính tả, với em hay viết sai lỗi l/n mà bây giờ đã viết sai ít hơn tôi cũng vẫn khen em đó (VD: “em viết bài có tiến bộ, đã ít sai lỗi l/n hơn rồi, em cần phát huy” ....). Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hừng thú với công việc đó hơn. 11 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. *Nhà trường. Có đủ điều kiện CSVC, trang thiết bị, đồ dùng dạy học để giáo viên dạy. Huy động tốt việc học sinh đi học đều, học đủ (Có đi đủ, đi đều học sinh mới có thể học tốt) Ban giám hiệu ủng hộ trong việc thực hiện sáng kiến. Có sự chia sẻ kinh nghiệm trong chuyên môn của đồng nghiệp *Giáo viên: 1. Phải nâng cao nhận thức của giáo viên là biện pháp tiên quyết để nâng cao chất lượng dạy học. 2. Giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn nghiên cứu sâu thiết kế. 3. Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và phương pháp giảng dạy theo từng đối tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra những giờ dạy gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả học tập cao. 4. Giáo viên phải thực sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy. 5. Mở đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự nhiên để gây hứng thú học tập cho học sinh nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài. 6. Khi đọc mẫu giáo viên cần phát âm chuẩn vì ở lứa tuổi các em bắt chước rất tốt tránh để tiếng địa phương là ảnh hưởng đến các em. *Học sinh. Đi học đều, có đủ đồ dùng học tập. Trong lớp chú ý nghe giảng, chịu khó đọc. Biết hợp tác chia sẻ cùng bạn bè trong lớp nhất là trong việc rèn đọc. Có sự vào cuộc và sự ủng hộ cao từ phía cha mẹ học sinh. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Sau mỗi năm học nghiên cứu và áp dụng những biện pháp về việc rèn đọc cho HS lớp 1 qua môn Tiếng Việt 1 – CGD. Để biết được kết quả bước đầu cả những phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tôi đã cho học sinh của lớp mình thực hành đọc một số bài bất kỳ, em sau không đọc trùng bài của em trước. - Điểm 9, 10: Đảm bảo đọc to rõ ràng, lưu loát, không có lỗi về phát âm. - Điểm 7, 8: Đọc to, rõ ràng. Phát âm đôi chỗ chưa thật sự đúng. Sai không quá 3 lỗi chính tả/bài. 12 - Điểm 5, 6: Đọc còn nhỏ, đọc chậm và còn sai quá 5 lỗi chính tả/bài - Dưới điểm trung bình: chưa đọc được hết bài. Sai nhiều lỗi phát âm. Sau khi kiểm tra có kết quả như sau: Hầu như các em đã đọc được hết bài. Tuy nhiên vẫn có em đọc nhỏ, đọc chậm và có em vẫn sai lỗi phát âm, nhưng nhiều em đã có sự tiến bộ trong cách đọc cũng như số lượng mắc lỗi phát âm của các em đã giảm. Cụ thể là: Căn cứ vào bài chấm tôi thống kê điểm bài đọc của học sinh như sau: Khảo sát cuối năm (Tháng 5/2017) TSHS Đọc tốt Đọc khá Đọc trung bình Đọc yếu Đọc ngọng 40 25 10 5 0 0 Tổng số học sinh: 40 em - Số học sinh có kỹ năng đọc đúng ở mức + Tốt: 25 em + Khá: 10 em + TB: 05 em + Yếu: 0 em + Ngọng: 0 em Khảo sát đầu năm (Tháng 9/2018) TSHS Đọc tốt Đọc khá Đọc trung bình Đọc yếu Đọc ngọng 42 26 12 2 1 1 Tổng số học sinh: 42 em - Số học sinh có kỹ năng đọc đúng ở mức + Tốt: 28 em + Khá: 12 em + TB: 2 em + Yếu: 0 em (tiếp thu chậm) + Đọc ngọng: 0 em Từ kết quả đạt được cuối năm học, tôi thấy khả năng đọc cũng như lỗi phát âm của các em được cải thiện đáng kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú học tập, tạo không khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học. Từ đó tôi cũng mạnh dạn so sánh kết quả đầu năm học với cuối năm học. sánhkết quả đầu năm học và cuối năm học 2015 - 2016 13 Đọc trung Đọc yếu bình Đọc ngọng Thời gian TSHS Đọc tốt Đọc khá Đầu năm 40 14 10 10 5 1 Cuối năm 40 25 10 5 0 0 Bước sang năm học 2018 - 2019 ngay từ đầu năm tôi tiếp tục tiến hành nghiên cứu và áp dụng các phương pháp giảng dạy trên vào giảng dạy lớp 1A Trường tiểu học Chiến Thắng đến nay tôi nhận thấy các em học sinh có nhiều tiến bộ hơn năm trước. Học sinh đã phát âm đúng, chuẩn tiếng, từ, biết phân tích các từ, biết đọc, ngắt nghỉ đúng chỗ… kết quả rất khả quan. Nhận xét Bằng sự nhiệt tình trong công tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng sáng tạo những phương pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh lớp 1 để giúp các em không chỉ viết tốt mà còn đọc tốt, đọc chuẩn, đọc không sai lỗi. Tuy rằng số lượng các em đọc tốt vẫn còn hạn chế nhưng những biện pháp mà tôi đưa ra để giúp em đọc tốt hơn phần nào đã giúp các em học sinh lớp 1B nhìn nhận ra lỗi phát âm của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Áp dụng sáng kiến của mình trong việc rèn đọc cho học sinh để nâng cao chất lượng đọc. Bản thân tôi qua các tiết dự giờ của Ban giám hiệu và các đồng chí trong tổ chuyên môn đều đánh giá học sinh lớp tôi có nhiều tiến bộ. Học sinh đã phát âm đúng, chuẩn tiếng, từ, biết phân tích các từ, biết đọc, ngắt nghỉ đúng chỗ… Phụ huynh tin tưởng vào khả năng của giáo viên. Các đồng nghiệp trong trường đều mong muốn được áp dụng sáng kiến của tôi vào rèn đọc của lớp mình trong năm học tới. 11. Danh sách tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu Số TT 1 Tên tổ chức / cá nhân Dương Thị Lan Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Trường tiểu học Chiến Môn Tiếng Việt trong đó Thắng - TP Thái Nguyên chủ yếu là phần rèn đọc cho học sinh lớp 1A, Trường tiểu học Chiến Thắng - TP Thái Nguyên 14 theo chương trình CGD. Trên đây là sáng kiến của tôi đã thực hiện trong lĩnh vực biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt - CGD lớp 1 mà trọng tâm là kỹ năng rèn đọc cho học sinh. Nay xin báo cáo lại trước hội đồng khoa học nhà trường cũng như hội đồng khoa học cấp trên. Trong quá trình thực hiện và viết báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy đồng thời là tác giả báo cáo sáng kiến tôi rất mong nhận được sự động viên, sự giúp đỡ của Hội đồng khoa học các cấp giúp tôi dạy tốt hơn. 15 Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt15 1244 88 Sáng kiến kinh nghiệm môn Tiếng Việt lớp 1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động luyện nói trong tiết tiếng việt cho học sinh lớp 112 510 25 Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D50 1160 95 SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt hơn môn Tiếng Việt12 1588 74 Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 121 252 19 Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp dạy học phần âm môn Tiếng Việt lớp 1- CGD19 96 8 Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Học vần lớp 129 262 13 Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD26 87 8 Sáng kiến kinh nghiệm: Xây dựng trò chơi học vần cho học sinh lớp 136 485 39 Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh yếu lớp 113 147 3 1. Sáng kiến kinh nghiệm lớp 1 rèn chữ viếtĐối với học sinh lớp 1, việc rèn chữ viết có vai trò hết sức quan trọng. Nó là bước đệm để học tập các môn học khác, đồng thời là cách để học sinh rèn luyện tính cẩn thận, tỉ mỉ. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 1 NĂM 2021 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 1 NĂM 2021 - 2022: MỘT SỐ ... SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 1 MÔN TOÁN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 1 CHƯƠNG TRÌNH MỚI 2021 Sáng kiến kinh nghiệm lớp 1 TỔNG HỢP CÁC MẪU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TIỂU HỌC TOP 20++ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 1 MỚI NHẤT 1.1. Biện pháp chỉ đạo rèn chữ viếtTên đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” Vấn đề tác giả luôn trăn trở trong những năm công tác là làm sao để rèn được chữ đẹp và rèn như thế nào mới mang lại hiệu quả tốt nhất. Sau nhiều năm thực hiện, nghiên cứu đã rút ra được những bài học và phương pháp cải thiện như: rèn tư thế viết, cách cầm bút của học sinh, chuẩn bị của giáo viên về kiến thức chuyên môn… Download TẠI ĐÂY 1.2. Biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ rõ ràng, sạch đẹpTên đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ rõ ràng, sạch đẹp” Đây là bài sáng kiến kinh nghiệm lớp 1 môn Tiếng Việt trong phong trào học sinh giữ vở sạch, chữ đẹp. Một số điểm mới đạt được qua sáng kiến:
1.3. Rèn chữ viết cho học sinhTên đề tài: “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” Học sinh lớp 1 thay đổi môi trường học tập, mới làm quen với việc học chữ nên sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ. Nếu đòi hỏi các em viết đúng, viết đẹp ngay mà không qua rèn luyện uốn nắn thì khó có thể thực hiện được. Do đó, tác giả Lâm Mỹ Lệ, trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân Từ đã đưa ra biện pháp khắc phục trong quá trình giảng dạy để rèn chữ cho học sinh lớp 1. Download TẠI ĐÂY 1.4. Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn chữTên đề tài : “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn chữ ở lớp 1” Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, nhất là đối với lớp 1. Viết đúng, đẹp, nhanh, rõ ràng học sinh có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn. Nhiệm vụ của các thầy cô giáo chính là giúp học sinh nâng cao được khả năng tập viết ngay từ lớp 1. Download TẠI ĐÂY 1.5. Biện pháp rèn chữ viếtTên đề tài: “Một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1” Qua thực tế cho thấy, một số học sinh của lớp 1A trường tiểu học Quyết Thắng chữ viết chưa đẹp, viết còn cẩu thả. Bên cạnh đó, việc giáo dục cho các em những phẩm chất đạo đức tốt: như tính cẩn thận, tính kỉ luật và khiếu thẩm mỹ chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, tác giả đã nghiên cứu tài liệu và học hỏi ở đồng nghiệp xây dựng nên một số biện pháp sáng tạo và khoa học hơn cho công tác rèn chữ viết cho học sinh lớp 1. Download TẠI ĐÂY Sáng kiến kinh nghiệmMột số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1Phần thứ I: Phần mở đầuNhững vấn đề chung 1. Lý do chọn đề tài Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng, bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo, các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em, mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt, bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc. Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản, mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc.Với lòng ham thích và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm từ thực tế nhà trường nên tôi đã chọn vấn đề “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình để góp phần giáo dục nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục chung của huyện nhà. 2. Mục đích của đề tài. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơi trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi của học sinh Tiểu học .............. nói riêng. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Phần II: Nội dung nghiên cứu1. Cơ sở lí luận 1.1 Những vấn đề về cơ sở lý luận 1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của trẻ Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về: - Mục tiêu giáo dục. - Nội dung và phương pháp dạy học. - Cách thức đánh giá học tập của học sinh. Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân. Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người. Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Tập đọc, đặc biệt là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, viết đúng và nói đúng, ... Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, đọc đúng góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 1 là những bài văn, bài thơ hay trong kho tàng văn học trong nước và nước ngoài. Chính vì thế mà các em có vốn văn học dân tộc. Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm., học sinh giữ vai trò chủ đạo trong quá trình học tập. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống phong phú cho học sinh. Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ càng. Được sắp xếp theo từng chủ đề, nội dung các bài tập đọc cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu người thân, ... ở xung quanh các em. 2. Những vấn đề về thực trạng Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau: 2.1. Về giáo viên Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc, tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn. 2. 2. Đối với học sinh Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ môn tập đọc, vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên. 3. Một số biện pháp cơ bản để luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là: 3.1. Đọc mẫu: - Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn. - Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 ® 3 bài đầu) giáo viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo cho các em có thói quen làm việc với sách. 3.2. Hướng dẫn đọc Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài: - Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng - Dạng văn xuôi Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có: - 23 bài dạng văn xuôi - 19 bài dạng thơ Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1. 3.2.1. Luyện đọc từ ngữ Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này. Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan” Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau “ Hoa lan, lá dày, lấp ló” Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. ........... Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết |