Sự khác biệt giữa Nho gia và Nho giáo
SO SÁNH TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIABạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.62 KB, 29 trang ) Show
MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây.Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy.Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội… Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành bài viết này! Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 2 PHẦN 2: NỘI DUNG Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia I. Khái quát Nho gia 1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 1.1. Lịch sử hình thành Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục và có ảnh hưởng rất sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng và nhiều quốc gia phương Đông nói chung. Khổng Tử sáng lập ra nho gia vào cuối thời Xuân Thu rất quan tâm đến vấn đề đạo đức-chính trị- xã hội. Ông xem hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân của con người. Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho gia bị chia thành 8 phái.Trong đó, có phái Tuân Tử và Mạnh Tử là mạnh nhất.Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nho gia nguyên thủy.Vì vậy nho gia ‘’Khổng-Mạnh” được gọi là nho gia nguyên thủy. Nho giáo chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua nhiều triều đại.Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức quản lý xã hội, vào sự nghiệp phát triển văn hóa và giáo dục.Nho giáo đã đóng góp vào quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân,đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nho giáo nguyên thủy Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 3 nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Hán Nho Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiếnTrung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho [cần dẫn nguồn] . Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". Tống Nho Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. 1.2. Đặc điểm của Nho gia Nho giáo là sản phẩm của hai nền văn hóa: văn hóa du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương Nam, chính vì thế mà nó mang đặc điểm và chứa đựng những mâu thuẫn của hai loại hình văn hóa này. Mang đặc điểm của tính du mục phương Bắc, Nho giáo mang tính quốc tế, thể hiện ở chỗ mục tiêu cao nhất của người quân tử là bình thiên hạ, việc tìm một đấng minh quân quan trọng hơn việc làm gì cho đất nước của mình. Song song đó, Nho giáo còn mang tính phi dân chủ mà hệ quả của nó chính là tư tưởng bá quyền, coi khinh các Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 4 dân tộc khác, coi mình là trung tâm, coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Được thể hiện ở chữ Dũng, Nho giáo mang tính trọng sức mạnh, một trong ba đức mà người quân tử phải có: Nhân, Trí, Dũng. Ngoài ra, với học thuyết Chính Danh, tính nguyên tắc được đề cao trong Nho giáo, tức là tất cả phải có tôn ti, phải làm việc theo đúng bổn phận. Mang đặc điểm của tính nông nghiệp phương Nam, Nho giáo nổi bật bởi sự hài hòa khi đề cao chữ Nhân và nguyên lý Nhân trị. Với cách cư xử trung dung trong Ngũ Luân, Nho giáo mang đặc tính dân chủ, nghĩa là các quan hệ đều thể hiện tính hai chiều, bình đẳng. Bên cạnh những đó, sự coi trọng văn hóa tinh thần được thể hiện trong Kinh Thi cho thấy sự mâu thuẫn giữa tính trọng văn trong văn hóa nông nghiệp phương Nam so với tính trọng võ trong văn hóa du mục phương Bắc. Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa khiến cho tư tưởng của Khổng Tử không tránh khỏi giằng co và đầy mâu thuẫn. 2. Các quan điểm của Nho gia: Nho gia mà đại diện là Khổng Tử đặt ra những quan điểm về đường lối xây dựng đất nước và quan điểm về đạo đức và giáo dục con người. Đối với việc xây dựng đất nước, Khổng Tử cho rằng một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc lớn, đó là Thực túc, Binh cường và Dân tín, lúc đó xã hội mới ổn định. Trong ba điều trên thì dân tín là quan trọng nhất vì “dân vi bang bảo”, dân là gốc nước, gốc vững thì nước mới yên. Việc dưỡng dân, giáo dân cũng rất quan trọng để xây dựng một quốc gia. Dưỡng dân hay nuôi dân để dân quý, nước thịnh, còn khi dân được giáo hóa thì dễ sai bảo, dễ trị, nước sẽ yên. Việc giáo dân sẽ được thực hiện bằng cách mở các trường dạy học, dạy dân bằng lễ, nhạc, trong đó lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên, nhạc để hòa nhập trên dưới, dạy con hiếu thảo với cha mẹ, thận trọng trong cư xử. Giáo dân không phân biệt giàu nghèo, nghèo không thu học phí. Thông minh thành kẻ sỹ, cao hơn thì thành người quân tử là những người đủ đức tài trong xã hội. Đối với nhà cầm quyền, để giáo hóa dân thì phải tu dưỡng đạo đức cá nhân và dùng Đức trị. Phải làm gương, sửa mình để sửa người. Người trị dân thì phải có đức thì dân mới theo, mới cảm hóa Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 5 được dân. Vua có đức được ví như sao bắc đẩu. Vua phải lấy đức để trị dân, từ đó xã hội ổn định, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn dắt dân chứ không cưỡng chế trừng phạt. Đối với vấn đề đào tạo con người thì trong xã hội Nho gia phải đào tạo người có vừa đủ đức và tài, với ba loại người là kẻ sỹ, đại trượng phu và quân tử. Trong Nho gia, quan điểm về đạo đức và giáo dục con người bao gồm thuyết Chính danh, tức là phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy thì không được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn, ngôn cũng phải chính, lời nói đi đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên ngoài thì kính cẩn, bên trong lại không. Về giáo dục đạo đức con người còn có Nhân là yêu thương người khác, không làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình. Muốn đạt được đức nhân thì phải khắc kỷ, tức là từ bỏ tính tham lam, ích kỷ và phục lễ, tức là hành động theo đạo lý, chân lý. Ngoài Nhân thì con người phải có Trung: vua trung – tôi trung, Hiếu là phải kính yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà, Nghĩa là thấy việc gì đáng làm phải làm, không hề mưu tính lợi ích cá nhân, Trí là sự minh mẫn sáng suốt, biến nhận thức đúng sai, muốn có trí phải học, không học thì dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu dốt làm biến chất, Dũng là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo vệ chân lý, Lễ là những nghi thức nhất định trong tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày. Trong hệ tư tưởng Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình là Ngũ luân: quân – thần (vua phải minh thần phải trung), phu – tử (cha phải từ con phải hiếu), phu – phụ (chồng trọn nghĩa vợ trọn trinh), huynh – đệ (anh em như thể tay chân), bằng – hữu (bạn bè phải lấy tín thành mà đối đãi nhau) II. Khái quát Pháp gia 1. Lịch sử hình thành và đặc điểm Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 6 tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay. Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Quản Trọng là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởngTrung Quốc thời Xuân ThuÔng nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia. Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Thương Ưởngđược vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủtrương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến khíchdân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo chủ trương dùng thế, Ngô Khởi cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình. Cuối cùng phải kể đến Hàn Philà học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 7 trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ. 2. Các quan điểm của Pháp gia: Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất nước và tư tưởng biện chứng của nó. Về đường lối xây dựng đất nước, trị nước phải kết hợp các sáu yếu tố: pháp luật, hình phạt, nông nghiệp, chiến tranh, nghệ thuật, thế lực. Về nông nghiệp thì tập trung phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh; về chiến tranh, phái Pháp gia chủ trương xây dựng quân đội mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược, khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thế là địa vị, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn Về tư tưởng biện chứng trong hệ thống tư tưởng của Pháp gia là Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Đây được gọi là quan điểm thời biến, mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi để phù hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Ngoài ra Hàn Phi Tử còn thừa nhận sự tồn tại của lý tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 8 Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia I. Sự tương đồng giữa Nho gia và Pháp gia Tiến hành so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta nhận thấy có những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này như sau: Trước hết là đề cập đến mục đích của hai trường phái Nho gia và pháp gia đều mang tinh thần muốn xây dựng một xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu mạnh. Mặc dù quan điểm của hai trường phái có nhiều điểm khác nhau nhưng những mong muốn và mục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường. Thứ hai là liên quan đến tư tưởng hai phái Nho gia và Pháp gia có những nét khác nhau, nhưng một số công cụ được sử dụng trong quá trình điều hành đất nước của những nhà cầm quyền có những nét tương đồng. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Thực túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển nông nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh Cường, thì trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh. Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một trong hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để thỏa mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Còn theo Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết học Pháp gia cũng có cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người” là ác, đưa ra học thuyết cá nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 9 Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận dụng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc mà còn lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát triển bền bĩ, được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay. Cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Đối với Nho gia, nhà cầm quyền có những tố chất để vừa làm gương cho dân, vừa dùng Đức trị để dưỡng dân, giáo dân. Nhà cầm quyền giống như vì sao Bắc Đẩu để dân soi đường và học tập. Để dân tin dân tín, nhà cầm quyền không những phải sáng suốt, hiểu cao biết rộng mà còn phải biết cách trị nước, an dân, dùng Nhân để hướng lòng dân về một mối. Song song đó, Pháp gia mặc dù sử dụng phương pháp trị nước khác với nho gia nhưng cũng chủ trương cần một đấng minh quân, một nhà cầm quyền am hiểu nguyên tắc cai trị đất nước Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội. Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Trong Nho gia, dựa vào lợi ích của giai cấp thống trị đã đưa ra các tư tưởng về Tam Cương, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức, tạo thành một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giá trị dương trong thuyết âm dương ngũ hành, hay cho lễ giáo theo trật tự đã định trong xã hội. Nho gia sử dụng phương cách Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng pháp trị để giải quyết thực tiễn xã hội. Cuối cùng, mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát triển rực rỡ và hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 10 tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống Chính vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của thế giới. Chính điều này đã khiến Nho giáo dần dần không phù hợp. Đối với Pháp gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, sau khi đã thống nhất được đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành pháp trị mà dẫn đến mất nước. II. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 1. Trị quốc Đối với hệ tư tưởng Nho gia, Khổng Tử đề xuất đường lối “Đức trị” – đường lối trị nước bằng đạo đức, mang bản sắc của chính người đề xuất ra nó. Nội dung đường lối “Đức trị” là thực hiện 3 điều: dân đông kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, giữ gìn chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý Cơ sở tư tưởng “Đức trị” của ông suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể cảm hóa được. Ông quan niệm phép trị dân thì không cần dùng đến biện pháp giết người. Trước sau gì Khổng Tử đều muốn lấy đạo đức mà cảm hóa người hơn là dùng hình pháp mà trị người. Còn Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối “Đức trị” dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng) Khổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”. “Chính danh” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, cứ thể mà làm, nếu không “chính danh” thì lời nói sẽ không đúng đắn dẫn đến việc thi hành sai. Khổng Tử cho rằng: danh không Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 11 chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ, nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu? Theo Mạnh Tử thì cai trị đất nước bằng “Đức trị” và thực hành chính danh để xây dựng một xã hội đại đồng. Có thể khái quát như sau: cơ sở gia đình, nền tảng xã hội không phải là những quan hệ kinh tế, xã hội mà là quan hệ đạo đức, chính trị, đặc biệt là quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi, chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui. Nếu không chính danh, tức vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng thì luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẻo. Khổng Tử cũng phản đối nhà cầm quyền dùng luật pháp để cai trị dân. Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sĩ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sĩ và thực lòng quy phục. Như trong Luận Ngữ, ông đã nói: “dùng chính lệnh mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhát thì dân khỏi tội nhưng không có lòng hổ thẹn, dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì dân có lòng hổ thẹn, lại cố làm điều hay”. Ngược lại với Nho gia đề cao “Đức trị”, Pháp gia đề cao Pháp trị, tức cai trị bằng Pháp luật. Nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao “Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng, “Thế”, “Thuật”, “Pháp” là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Hàn Phi Tử coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật: pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật trong đó “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, “Thuật” là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị, còn “Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 12 Hàn Phi Tử cho rằng, khi thực hành pháp trị thì phải xét tới các nguyên tắc sau: thứ nhất, tính tư lợi: nền tảng quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình, thứ hai, hợp với thời thế: đối với Hàn Phi, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng để mà noi theo. Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn, thứ ba: ổn định, thống nhất, tức là mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiền thay đổi, thứ tư: phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm, thứ năm: đơn giản mà đầy đủ, thứ sáu: thưởng hậu phạt nặng, thứ bảy: vua phải nắm hết quyền thưởng phạt. Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: thứ nhất, tăng cường giáo dục pháp chế, thứ hai: mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, thứ ba: nghiêm khắc cẩn thận, không được tùy ý thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại người vô tôi, thứ tư: dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật. “Thế” được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Theo Hàn Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân: “chỉ có bận hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy”. Muốn thi hành pháp luật phải có thế. Thế không chỉ là địa vị quyền uy của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước. Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế, đề phòng đại thần tiến quyền. Nếu xét về bản thân vua, thì thế là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhât, còn pháp và thuật chỉ là công cụ. Sau Pháp và Thế, Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật còn thể hiện trong thuật dùng người. Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là chính danh, hình danh và thực danh. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng Thuật. Bề tôi Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 13 tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà giao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng, công không xứng việc thì phạt. Ngoài ba công cụ trị nước Pháp, Thế, Thuật đã nêu trên, Pháp gia hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ. Tư tưởng Pháp trị của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng, nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn trị quốc bình thiên hạ được. Khổng tử và Mặc tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn, đều noi theo đường lối trị nước của Nghiêu, Thuấn mặc dù chủ trương của Khổng Tử và Mặc Tử khác nhau nhưng cả hai đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Trong khi đó đời Ân, đời Chu tồn tại đã hơn bảy trăm năm về trước, lấy gì làm bằng cứ xác thực. Chính vì vậy, theo Pháp gia phương pháp trị nước đúng đắn và hữu hiệu nhất, phù hợp với điều kiện lịch sử thời Xuân thu chiến quốc chỉ là phương pháp pháp trị mà thôi. 2. Tố chất của nhà cầm quyền Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền, Khổng Tử cho rằng nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân nên ông làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo mà trước hết là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ (sau này Đổng Trọng Thư gọi là tam cương, và mở rộng thành ngũ luân (quân – thần, phụ - tử, phu – phụ, huynh – đệ, bằng – hữu) và cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân – thái độ ứng xử đúng đắn trong gia đình (thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình), phải luôn tu sửa thân mình để làm cho mình xứng đáng với vị trí là một thành viên trong gia đình “cha nên cha, con nên con, anh nên anh, em nên em, chồng nên chồng, vợ nên vợ, ấy là gia đạo chính”. Đặc biệt trong hai quan hệ cha – con, quan hệ anh – em phải thể hiện hai đức Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 14 hiếu và đễ, chúng là gốc của đức nhân. Tu thân tiếp theo là thực hành trách nhiệm với nước. Từ phụng sự cha mẹ người ta nâng lên phụng sự nhà vua, từ những phép tắc trong nhà người ta suy rộng và vận dụng vào việc xây dựng thể chế, nghi thức và tổ chức bộ máy cai trị và trật tự tôn ti trong cả nước. Nho giáo đã đem gắn chặt nước với nhà, coi tề gia là tiền đề của trị quốc. Nói tới nước, là nói tới vua, vua có sứ mệnh lớn là cai trị đất nước. Để trị nước họ phải trau dồi đức nhân Phái Nho gia hiểu là sự cai trị đất nước đặt trên cơ sở bản thân nhà cầm quyền, sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị bản thân của những người cầm quyền mà ra và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị có đủ tài đức, nghĩa là bên cạnh khả năng, nhà cầm quyền phải có đủ đức hạnh. Thuyết nhân trị còn được hiểu là cách cai trị, theo đó, nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến cưỡng chế, trừng phạt. Vài trò đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yêu để cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trị trật tự xã hội. Biện pháp cơ bản để thực hiện nhân trị, là chính danh, lễ, vai trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân với ý nghĩa là gốc là nền tảng của chính trị. Khổng Tử đã từng nói: “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng” (sách Luận Ngữ) nghĩa là bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì người khác cũng thi hành, còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì người khác cũng không tuân theo. Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn nhưng theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ” (Khắc kỷ phục lễ vi nhân) Theo quan điểm của Hàn Phi thì cho rằng nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng. Ông cho rằng bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 15 nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô đọc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau Phái Pháp gia ban đầu đều cho rằng nhà cầm quyền – hoàng đế với tư cách người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với “sự bí ẩn của chính quyền”, và như thế những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính trọng và tuân thủ. Nhà vua đại diện cho tính chính thống. Khi nhấn mạnh quyền lực của vương quyền, những người pháp gia như Thận Đáo và Thân Bất Hại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của một nhà cai trị có đạo đức đối với nhân dân. Vì thế, thần dân bắt buộc phải tuân theo những mệnh lệnh dù là đê hèn, tàn nhẫn nhất hay những vị ua cai trụ dù là bất tài nhất. Những nhà cai trị tài năng được tôn kính, những nhà cai trị khôn khéo thì giữ kín mình. Vì vậy, theo lý thuyết, bằng cách che dấu đi những mong ước, những ý định của mình, vị vua của pháp gia biết được kẻ nịnh bợ và buộc quan lại phải lưu ý về tính độc tài của chính quyền. Trong khi Thương Ưởng vẫn để cho những vị vua cai trị say đắm vào nữ nhạc hơn là chú tâm tới chính sách đối ngoại, Hàn Phi Tử lại yêu cầu một nhà cai trị khôn ngoan. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu chuẩn của Hàn Phi Tử, phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan trung thành khi chúng có sai sót, nhưng cũng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ dưới quyền và không quá tham lam. Vị vua cai trị tài giỏi cũng phải hiểu được tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng lượng. Mặc dù mong rằng nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, Pháp gia nhấn mạnh rằng tỏ ra quá nhân đức có thể làm hại đến tính quần chúng và đe dọa trật tự bên trong của quốc gia. Theo nhà sử học vĩ đại thời Hán là Tư Mã Thiên (145 – 86 TCN), trong khi vị Hoàng đế đầu tiên nhà Tần giấu mình khỏi thế giới (có lẽ vì muốn đạt tới bất tử) và vì thế ít được biết đến, ông lại không cần phải theo mọi đề xuất của Pháp gia trong vai trò của nhà cai trị. Trong khi các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất đinh, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 16 Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình. Thuyết Pháp trị của Hàn phi chủ trương nhà cầm quyền không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chính. Muốn thi hành được các chủ trương của phái Pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó. 3. Tư tưởng biện chứng Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời. Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 17 Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không cúi đầu trước con trời (Thiên tử) Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang thần phục trước “siêu người” Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp với cái Danh. 4. Giáo dục, đạo đức Khác với các nhà tư tưởng thuộc các học phái khác nói chung và Pháp gia của Hàn Phi Tử nói riêng, tư tưởng Nho gia mà đại diện là Khổng Tử rất đề cao việc học tập, tu dưỡng đạo đức và là nhà giáo dục danh tiếng bậc nhất. Về ý nghĩa của giáo dục, Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa phổ biến, giáo dục làm con người mở mang tri thức, hình thành nhân cách đầy đủ cả ba mặt nhân, trí, dũng, đem điều đã học ra ứng dụng đem lại lợi ích cho đời. Ông cho rằng làm vua quan cũng phải học, làm ruộng vườn cũng phải học chứ không thể dựa vào cảm tính và lòng nhiệt thành. Về nội dung dạy học thì Khổng Tử rất coi trọng giáo dục đạo đức, dùng đạo đức để thi hành chính sự. Ông ít quan tâm đến các kiến thức khác nhưng không vì thế mà ông coi khinh những tri thức kỹ thuật cụ thể, đặc biệt Khổng Tử rất để cao Nhạc và Thi. “Nhạc chính trực, trang nghiêm, hòa nhã, có tác dụng di dưỡng tính tình, cảm hóa lòng người, hướng tâm con người tới chân, thiện, mỹ, do sự cảm ứng trong tâm với sự hài hòa với âm nhạc”(trích Luận Ngữ). Khổng Tử đề cao kinh Thi: “Thi có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được tên chim muông cây cỏ” (trích Luận Ngữ). Cho nên, Khổng Tử nói: “hưng khởi là nhờ Thi, tạo lập là nhờ Lễ, thành đạt là nhờ Nhạc”. Vì thế, Khổng Tử dành nhiều công sức để sưu tập, chỉnh lý di sản văn hóa Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 18 cổ (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh Dịch) và chính ông biên soạn Kinh Xuân Thu. Sau này những sách này trở thành những sách kinh điển của nho gia. Về Phương pháp giáo dục, Khổng Tử coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh vai trò của việc suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của chủ quan, kết hợp học và hành, thấy được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học: “Kẻ nào không cố công tìm hiểu ta chẳng dạy cho, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho, kẻ nào ta bày một mà không biết hai, ta chẳng dạy nữa”. Ông luôn khuyên mọi người học phải nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều để xét rõ cái hay cái dở mà nhớ lấy, đó là điều quan trọng để trở thành trí giả. Về mẫu hình con người mà Khổng Tử đào tạo là những sĩ quân tử, những con người có thể thay mình hành đạo ở đời, những quan chức phục vụ các vương triều quý tộc theo thuyết “chính danh” và chủ trương “Đức trị”, “Lễ giáo”, là những con người sẵn sàng phục vụ chế độ có chính sách “tôn hiền”, “nhiệm năng” và “cử trực” do ông đề xướng. Đối với thuyết Chính danh: Khổng Tử đưa ra học thuyết này nhằm ổn định trật tự xã hội, theo ông, danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được mà xã hội sẽ hỗn loạn. Người nào mang danh nào phải thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó nếu không phải gọi bằng danh khác. Khi danh tự đã chính thì việc gì có nghĩa lý của việc ấy, khi danh tự đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng của người ấy, trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh Đối với Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí thì khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất, Nhân là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng Tử. Nhân được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua lễ, nghĩa, quy định quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Nhân có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì Nhân là tâm Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 19 điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người. Nhân cũng có thể hiểu là “trung thứ” tức là đạo đối người, nhưng cũng là đạo đối với mình nữa. Trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân không chỉ là yêu người, thương người, mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy nhân chính là đạo làm người, sống với mình và sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông. Đối với Lễ, bao gồm nghi thức lễ tế, phong tục tập quán được xã hội thừa nhận, quyền hành của người trị nước và cách tiết chế hành vi của người dân. Giáo dục Lễ nhằm bốn chủ đích: hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng hậu, làm gốc cho đạo nhân, giữ tình cảm sao cho trung dung, xác định phân minh lẽ phải trái, tình thân sơ, trật tự trên dưới, tiết chế những thường tình dung tục của con người. Khổng Tử cho rằng, chỉ có cách tuân giữ Lễ như những luật tắc giao tế xã hội ta mới có khả năng thành tựu Nhân, một cách căn bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Khổng Tử nhiều lần nhấn mạnh đến Lễ như một phương cách củng cố tôn ti trật tự của xã hội. Mỗi cá nhân đều có Lễ thích đáng cho địa vị xã hội của mình. Song song với Lễ là Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không mưu tính lợi của cá nhân mình. Còn Trí trước hết là biết người, có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà không làm hại cho người. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người, dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét. 5. Nhân sinh, bản thể Quan niệm về vấn đề con người cũng như bản chất của nó, cả hai trường phái Nho gia và Pháp gia có những quan niệm riêng. Mỗi trường phái thể hiện cách nhìn nhận về nhân sinh, bản thể khác nhau. Nếu như phái Nho gia xem con người hướng theo tính thiện thì Pháp gia lại xem con người hướng theo tính ác. Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn nhân từ. Đạo người có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng, Tín, trong đó Nhân được nhắc đến và là trung tâm của Đạo. Còn Pháp gia thì lại cho rằng bản tính con người là ác, người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội bình yên, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 20 thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì người thợ cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. Nho gia cho rằng bản chất con người là không lười biếng. Còn Pháp gia thì cho rằng bản chất con người là lười biếng. Con người khi có dư ăn rồi thì không muốn làm gì nữa. Hàn Phi đã nói: loài người thời ăn lông ở lổ chắc chắn là như vậy. Một người “esquimau” (thỏ dân Bắc Mỹ sống gần Bắc cực) bảo: “khi tôi dư thịt ăn rồi thì tôi chẳng nghĩ tới gì cả”. Và theo ông Loskiel thì một bộ lạc láng giềng sẽ chia lương thực cho họ. Những bộ lạc này thấy người siêng năng cứ phải nuôi báo cô kẻ làm biếng, nên ngày càng trồng trọt ít đi. Theo Nho gia, bản tính con người phụ thuộc nhiều vào giáo hóa bằng lễ, nghĩa, đặt tài đức lên trên địa vị, phải có tài đức tới một mức nào đó thì mới xứng đáng với địa vị, mới không làm hại dân. Còn theo Pháp gia, bản tính con người là chỉ phục tùng quyền lực mà thôi. Đặt địa vị, quyền thế lên trên tài đức, miễn là tài đức trung bình mà có quyền thế là trị nước được rồi. Về khía cạnh bản thể, Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh. Còn Pháp gia thì thừa nhận sự tồn tại của Lý: tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi hoạt động của tự nhiên và xã hội. Con người phải nắm lấy cái Lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 21 Chương III: Ảnh hưởng, Vận dụng của Tư tưởng Nho gia Pháp gia vào xây dựng đất nước Việt Nam I. Ảnh hưởng và vận dụng của tư tưởng nho gia đến văn hoá Việt Nam Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam. Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Cả nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam. Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn. Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 22 Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân. Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo. Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt. Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau. Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 23 quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua. Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc. Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai. Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niềm tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc. Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới.Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Tiểu luận Triết học: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia SVTH: Hồ Thị Trúc Hà Trang 24 Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người đã sử dụng đã đề cập đến việc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc các phạm trù đạo đức của Nho giáo như nhân, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam II. Vận dụng tư tưởng pháp gia vào việc xây dựng đất nước Việt Nam Tư tưởng Pháp gia ra đời nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho các vấn đề thực tiễn chính trị, xây dựng kỹ cương đất nước . Pháp gia phục vụ cho những mục đích nhất định mà phần lớn là phục vụ cho tầng lớp thống trị. Tư tưởng Pháp gia đã nói không có gì là bất biến, mỗi một xã hội lại phù hợp với một chủ trương, chính sách khác nhau. Xuất hiện từ rất lâu đời pháp gia là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc thời cổ đại, có giá trị lịch sử lâu dài và được nhiều nước phương Đông áp dụng, trong đó có cả Việt Nam. Hồ Chí Minhđã vận dụng Pháp gia rất thành công trong cuộc đấu tranh và giải phóng dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng của lớp lớp đời đời con cháu Việt Nam noi theo. Đối với việc vận dụng Pháp trị, Hồ Chí Minh cho rằng quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại. Xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người, Hồ Chí Minh chủ trương tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước, môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Hiến pháp vì trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó. Sau năm 1954, khi đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp 1959. Dựa theo tư tưởng biện chứng của Hàn Phi Tử là thời biến pháp biến, một khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều Tiểu luận: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo giaBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.93 KB, 21 trang ) II. Sự tương đồng giữa Nho Gia và Đạo gia 6 2.1 Về lịch sử hình thành và phát triển 6 2.2 Về quan điểm 7 III. Nét đặc thù của hai dòng tư tưởng Nho gia và đạo gia 12 3.1 Vũ trụ và nhân sinh 12 3.2 Thế giới quan 12 3.3 Những tư tưởng biện chứng 12 IV. Những ảnh hưởng của học thuyết Nho gia và Đạo gia đến xã hội Việt Nam 15 4.1 Ảnh hưởng của Nho gia 15 4.2 Ảnh hưởng của Đạo gia 15 KẾT LUẬN 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 2 LỜI MỞ ĐẦU Ở Trung Hoa thời Trung đại, các trường phái triết học thường đề cập đến vũ trụ quan, nhân sinh quan, tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng chung quy đều nói đến con người với những quan hệ xung quanh, đều đi đến công nhận thế giới này là nhất thể. Trong số các quan niệm triết học cổ đại Trung Hoa, nổi bật hơn cả có lẽ là Nho giáo và Đạo giáo. Ảnh hưởng của Nho và Đạo giáo khá sâu rộng, từ tư tưởng xã hội, văn hóa, phong tục tập quán cho đến vân học Ngày nay, nhân dân Việt Nam đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, những tàn dư của Nho giáo và Đạo giáo vẫn tiếp tục tồn tại ở Việt Nam và tác động vào đời sống xã hội theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu triết học Nho giáo và Đạo giáo là điều cần thiết để từ đó vận dụng những tinh hoa, những giá trị cốt lỗi nhất vào đời sống hiện tại đồng thời nhận ra những điểm hạn chế trong từng tư tưởng để rút kinh nghiệm và cải thiện nó sao cho phù hợp với thời đại. Mặc dù qua quá trình giảng dạy tận tình của thầy Bùi Văn Mưa, thầy Hoàng Trung, nhưng đề tài này vẫn còn rất nhiều hạn chế và không tránh khỏi sai sót. Đề tài tiểu luận này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu về Sự tương đồng, khác biệt giữa Nho gia và đạo gia, từ đó phân tích và đánh giá sự ảnh hưởng của hai tư tưởng triết học này đến nền dân tộc Việt Nam Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 3 I. GIớI THIệU CHUNG Về NHO GIA VÀ ĐạO GIA Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. (Theo: http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/) Cho đến hiện nay, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian, đó là vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước Công nguyên, tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp… Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Lịch sử Triết học đã phải trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao như giai đoạn Triết học của Arixtốt, Đemôcrit và Platon nhưng cũng có lúc nó bị biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX – Triết học Mác ra đời dựa trên những điều kiện lịch sử về kinh tế xã hội, những tiền đề khoa học tự nhiên và sự kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học Phương Tây và Triết học Phương Đông. Nhưng do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội, văn hóa mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Phương Tây phát triển Triết học “hướng ngoại”, bởi những yêu cầu phát triển khoa học nghiên cứu; còn Phương Đông chịu sự tác động của chính trị, chiến tranh diễn ra liên tục, nên Triết học „hướng nội‟, nghiên cứu về Tôn giáo có Ấn Độ, về chính trị - đạo đức – xã hội có Trung Quốc. Nhưng dù phát triển ở Phương Đông hay Phương Tây, thì Triết học cũng là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người. Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 4 Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn, những quan hệ đạo đức - chính trị của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông. Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra các nhà tư tưởng lớn, và hình thành nên các trường phái Triết học khá hoàn chỉnh. Trong số các trường phái triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc tri thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó. Có thể nói, Nho giáo còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Đức Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên (Bắc Hàn),Hàn Quốc (Nam Hàn) và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho hay Nho sĩ hay nho sinh. Hiện tại có khoảng 150 triệu người theo Nho giáo tại châu Á. Một trường phái Triết học lớn nữa của Trung Hoa là Đạo giáo. Đạo giáo tức là giáo lí về Đạo, là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Hoa, là tôn giáo đặc hữu chính thống của nước này. Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo có thể xuất hiện ở thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, khi tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Đạo giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, dưỡng sinh, y học, hóa học, vật lý, địa lý, lịch sử,… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 5 Hai trường phái Triết Học này đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 6 II. Sự TƢƠNG ĐồNG GIữA NHO GIA VÀ ĐạO GIA 2.1 Về lịch sử hình thành và phát triển Nho gia và Đạo gia là hai trường phái triết học lớn của Trung Hoa, được hình thành và phát triển trong thời Xuân Thu, Chiến quốc. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm góp phần biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu nay. Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu, rất quan tâm đến các vấn đề đạo đức – chính trị - xã hội. Người kế tục nổi tiếng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 Tr.CN) và Tuân Tử (298-238 Tr.CN). Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (khoảng 580- 500 Tr.CN) với cuốn sách Đạo đức kinh. Lão Tử là ngừơi nước Sở, sống gần thời với Khổng Tử, tức là vào khoảng cuối Xuân Thu sang đầu Chiến quốc. Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là Trang Tử (396 - 286 Tr.CN), Đương Chu (395 – 335 Tr.Cn), chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh. Nho gia và Đạo gia cùng có những ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Hoa nói riêng, của nhiều quốc gia phương Đông nói chung: Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc về mặt đạo đức vào phép xử thế, về quan điểm chính trị, vạch ra đường lối chính trị cho chính quyển phong kiến thời bấy giờ. Đạo giáo lấy đạo là nguồn gốc của vạn vật, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y học, hóa học, vật lý, địa lý, lịch sử… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 7 2.2 Về quan điểm 2.2.1. Khởi nguyên vũ trụ Nho gia và đạo gia đều có những đặc điểm nổi bật sau: Thứ nhất, luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt. Thứ hai, chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa. Thứ ba, nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập". Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức Quan niệm về đạo và đức: Nho gia: Khổng tử coi đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để giữ gìn trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Xuất phát từ khai thác lý luận âm dương – ngũ hành, Đổng Trọng Thư là người đã đưa ra thuyết “trời sinh vạn vật” và “thiên nhân cảm ứng” để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải thích vạn vật, con người và xã hội Đạo gia: Lão tử cho rằng Đạo sinh ra vạn vật, Đức nuôi nấng, bảo tồn vạn vật. Vạn vật nhờ Đạo mà được sinh ra, nhờ Đức mà thể hiện và khi mất đi là lúc vạn vật quay trở về với đạo. Đạo sinh ra một (khí thống nhất), một sinh ra Hai (âm, dương đối lập), Hai sinh ra Ba (trời, đất, người), Ba sinh ra vạn vật. Quan niệm về âm dương: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 8 Cả hai trường phái đều đề cập đến khởi nguyên vũ trụ bắt nguồn từ Âm Dương. Âm và Dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. 2.2.2. Thế giới quan – Nhân sinh quan Bản tính nhân loại đều có một tính gốc: Nho Gia: Tính gốc là tính thiện (Khổng Tử, Mạnh Tử) hay tính ác (Tuân Tử). Cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều cho rằng: “bản tính con gười ta là thiện. Còn như người ta có làm những điều bất thiện, chẳng qua họ theo tự dục của mình, chứ không phải bản tính con người ta là như vậy” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, 6, 15). Nhưng tại sao bản tính con người là thiện và tính thiện do đâu mà có? Mạnh tử đưa ra ba căn cứ để lý giải: Tính thiện của con người được thể hiện ở bốn đức lớn: nhân, nghĩa, lễ, trí. Mạnh Tử viết:”Phàm những vật đồng loại đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con người ta lại nghi ngờ điều đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều đồng loại” (Mạnh Tử, Cáo Tử thượng, 7). Đạo Gia: thì cho rằng tính gốc là khuynh hướng “vô vi”. “Vô vi” là khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo. Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm gì cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng Làm mà như không làm, như thế có đặng không. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 9 Về đạo đức: “Đạo” liên quan đến sự phát triển, tiến hoá của trời đất, muôn vật, Đức gắn chặt với Đạo Nho Gia: Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời đất. Đạo là quy luật biến chuyển, tiến hoá của vạn vật trời đất. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân Đường đi lối lại của Nho gia đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm Đạo Gia: Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sáng tạo ra vạn vật, là phép tắc của vạn vật, quy luật biến hóa tự thân của vạn vật. Đạo là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là Đức. Quan điểm về con ngƣời: Cả hai đều tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, xây dựng, đào tạo con người, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội. Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu, hướng vào nội tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại). Chằng hạn như Khổng Tử (Nho gia) đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên nước phải lấy dân làm gốc. Và Đạo gia cho rằng Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 10 Đều theo chủ nghĩa duy tâm: Nho Gia: Mạnh Tử hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho Gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận. Tư tưởng triết học của Tuân tử thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đạo Gia: Đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời”. 2.2.3. Những tƣ tƣởng biện chứng Nho gia và Đạo gia ít quan tâm đến vấn đề lý giải thế giới, nguồn gốc của vũ trụ, tuy nhiên trong đó vẫn có những quan điểm biện chứng mang tính duy vật: Chẳng hạn như Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, như một quy luật:”Trời có gì đâu mà bốn mùa vẫn thay đổi, muôn vật vẫn sinh ra”. Đạo gia: Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan của sự vật phát triển và biến hóa, dạy mọi người hành động theo quy luật tự nhiên. Và “thế giới là một thể thống nhất, vận hành vì đạo, thông qua đức mà đạo nằm trong vạn vật luôn biến hóa. Đạo là cái vô. Cái vô sinh ra cái hữu. Cái hữu sinh ra vạn vật” (Bùi Văn Mưa & tiểu ban triết học, Triết học phần I: Đại cương về lịch sử triết học, tr.67, 2010, ĐHKT, HCM). Đạo vừa mang tính khách quan (vô vi), vừa mang tính phổ biến. Quan điểm biện chứng đa phần đều mang tính duy tâm Nho Gia: Khổng tử cho trời là một lực lượng vô hình quyết định số phận của mỗi người và sự thịnh sang của mỗi thời đại (Vua dân tế trời). Mỗi cá nhân sự sống chết hay nghèo hèn, phú quý là do Thiên mệnh quy định, phú quý không thể cầu mà có được, do vậy bất tất phải cầu. Sống theo mệnh trời, tuân theo mệnh trời thì sống, làm những điều nhân thiện thì có thể biến nguy Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 11 thành an (Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại, tr.9, 2011). Đạo Gia: đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Lão tử cho rằng: “Không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời. Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho mọi sự biến đổi của vạn vật”. Quan điểm trong phƣơng châm xử thế Con người sống và hành động dựa trên các nguyên tắc cơ bản, hợp với lòng người theo một quan niệm nhân sinh vững chắc. Cả 2 trường phái đều hướng con người đến cái thiện, khuyên con người sống tốt để có gia đình hạnh phúc và góp phần cho 1 xã hội ổn định Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 12 III. NÉT KHÁC BIệT ĐặC THÙ CủA HAI DÒNG TƢ TƢởNG NHO GIA VÀ ĐạO GIA 3.1 Vũ trụ và nhân sinh Quan niệm về đạo: Nho gia tin vào thiên mệnh và cho rằng thiên mệnh chi phối vận mệnh của con người. Đạo gia tin vào đạo, cho rằng vạn vật xuất phát từ đạo và đạo là quy luật chi phối vạn vật. Sở dĩ hai tư trường phái này khác nhau là do: Đạo theo quan điểm của Lão Tử là một phạm trù khái quát, nó không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu hình mà là tất cả mọi vật từ đó sinh ra, là cái tồn tại vĩnh viễn, bất biến. Vạn vật dù muôn hình, muôn vẻ cũng chỉ là sự biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất đó là đạo, và đạo không tồn tại ở đâu ngoài các sự vật hữu hình, hữu danh, đa dạng và phong phú vô cùng tận. Vì thế, đạo vừa là duy nhất, vừa thiên hình, vạn trạng; vừa biến hóa, vừa bất biến. Căn cứ vào quan điểm ấy, Lão Tử đả kích quan điểm trời sang tạo ra thế giới và cho rằng, trời không phải là căn cứ của đạo, trái lại đạo có trước thần linh. (Đạo Đức kinh, chương 30). 3.2 Thế giới quan Nho gia chủ chương nhập thế (hữu vi), đề cao đạo đức. Đạo gia chủ chương xuất thế (vô vi), tư tưởng giải trừ. Hai từ hữu vi và vô vi, về nghĩa đen của từ, chỉ hai trạng thái trái ngược nhau “có làm” và “không làm”. Hai khái niệm này trong phạm trù tư tưởng triết học thì chưa hẳn là hoàn toàn trái nghĩa nhau, bởi khái niệm “vô vi” của Đạo gia khá phức tạp. Tuy nhiên, đây vẫn là tôn chỉ khác nhau cơ bản giữa hai dòng tư tưởng Nam Bắc 3.3 Những tƣ tƣởng biện chứng 3.3.1 Tại thế và ngoại thế Chủ nghĩa Khổng Tử ở trong chúng ta là nỗ lực kiến thiết và cần lao, chủ nghĩa Đạo giáo, là bó gối ngồi xem và cười tủm tỉm Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 13 Hay như trong quan điểm về gia đình, Khổng Mạnh suy tư xây dựng một chế độ tông tộc vững chắc. Lão Trang thì vui điền viên và ẩn dật 3.3.2 Tự cƣờng và khiêm nhu So sánh hai dòng tư tưởng về phương diện này, trước tiên cần nói rõ rằng không phải hai dòng tư tưởng hoàn toàn đối lập theo kiểu một bên đề cao “tự cao, kiên cường, mạnh mẽ”, một bên đề cao “khiêm tốn, nhu mềm”. Khổng và Lão đều giảng về khiêm tốn và nhu hòa, tuy nhiên phân tích sâu và suy xét đến tường tận, sẽ thấy được đặc sắc riêng trong tư duy và lối diễn đạt của hai nhà. Đặc sắc riêng của hai nhà sẽ được vạch ra qua ba khía cạnh: sức mạnh nội tại của bản thân, lối ứng xử và làm chính trị. 3.3.3 Miễn cƣỡng và thuận tự nhiên Nho gia và Đạo gia đều quan tâm vấn đề “con người”. Đối với Nho gia, “Trong trời đất, con người là quý” (“Thiên địa chi tính nhân vi quý” - Hiếu Kinh, Thánh trị). Đối với Đạo gia, “Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn, mà người là một trong số đó” (“Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên” - Chương 25, Lão Tử) 3.3.4 Hiện thực và lãng mạn Hai dòng tư tưởng Nho và Đạo mang hai sắc thái hiện thực và lãng mạn đã được đúc kết bởi nhiều nhà nghiên cứu trước đây. Lâm Ngữ Đường trong Trung Hoa đất nước con người đã khẳng định điều này rất nhiều lần. Ông cho rằng đức Khổng Tử là một triết gia về thực nghiệm, thuộc chủ nghĩa nhân văn. Và còn nói “chủ nghĩa hiện thực trong lý tưởng nhân sinh của Trung Quốc và đặc tính chú trọng về hiện thế bắt nguồn từ học thuyết Khổng Tử 3.3.5 Quan điểm chính trị - xã hội Về đường lối trị nước an dân, quan điểm của Nho gia hoàn toàn đối lập với quan điểm của Đạo gia. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 14 Trong khi Nho gia vốn mang bản chất của một công cụ tổ chức xã hội, nó thực sự trở thành vũ khí của kẻ thống trị, thì Đạo gia, trên cơ sở thuyết vô vi, lại mang sẵn trong mình tư tưởng phản kháng giai cấp thống trị. Về quan điểm nhà nước lý tưởng: Nho gia chủ trương xây dựng nước lớn, kinh tế vững mạnh. Đạo gia chủ trương xây dựng nước nhỏ, hòa bình. Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến tranh bạo lực và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ thượng hiền. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 15 IV. NHữNG ảNH HƢởNG CủA HọC THUYếT NHO GIA VÀ ĐạO GIA ĐếN XÃ HộI VIệT NAM 4.1 Ảnh hƣởng của Nho gia 4.1.1 Ảnh hƣởng về mặt tích cực Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Công lao của Nho gia là góp phần đạo tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm Nho giáo hướng con người vào việc tu dưỡng đạo đức Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín – Dũng. Nhiều ý nghĩa giá trị của chuẩn mực đạo đức được nhân dân ta sử dụng trong nền giáo dục như “ Tiên học lễ, hậu học văn”; “ Trăm năm trồng người”… 4.1.2 Ảnh hƣởng về mặt tiêu cực Nho giao suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Đồng thời, Nho giáo góp phần không nhỏ trong vai trò duy trì quá lâu chế độ phong kiến. Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển ở Việt Nam 4.2 Ảnh hƣởng của Đạo gia Các dấu tích đạo giáo ở Việt Nam hiện còn như là đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Tản Viên (Sơn Tây), đền Đào Xá (Hưng Yên) Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ. Và chính vì giáo lý Đạo lão ít được biết đến một cách tường tận,mà chỉ được hiểu một cách mơ hồ qua những yếu tố mang tính phù thủy nên ở nhiều người Việt hiện nay nó thể hiện bằng sự mê tín dị đoan, đồng bóng thái quá không có lợi. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 16 KẾT LUẬN Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì Nho giáo và Đạo giáo có những ý nghĩa vô cùng thiết thực về phương pháp luận trong nhận thức và thực tiễn. Tìm hiểu về Nho gia và Đạo gia, chúng ta có thể vận dụng những tinh hoa, lý luận, quan điểm sâu sắc của hai trường phái này vào cuộc sống, đồng thời cũng biết được những tác động của hai trường phái này với xã hội Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa phƣơng pháp luận của Nho gia Những tư tưởng triết học của Nho gia đã để lại cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức và chính trị – xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý giá. Ví dụ điển hình về những tư tưởng về chữ Nhân và việc giáo dục đạo đức, nhân cách sống …của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay. Hay cụ thể hơn là những quan điểm về gia đình, và các mối quan hệ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc. Và thực tế, đó cũng là những lý tưởng sống, là khát vọng của chúng ta hiện nay. Trong thị trường kinh tế hiện nay, con người cũng xây dựng những chuẩn đạo đức kinh doanh cũng dựa vào những tư tưởng của đạo Nho. Việc đặt chữ “Tín” lên đầu hay “tư tưởng kinh doanh có đạo đức” có ý nghĩa rất lớn. Về mối quan hệ trong gia đình, đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại. Nho gia dạy ta biết hiều thuận với cha, mẹ, kính trên, nhường dưới. Cha mẹ biết thương yêu, dạy bảo con nên người có đạo đức, có nhân, lý, trí, dũng… thành người có ích cho xã hội. Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 17 Trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, chữ “lễ”, chữ “nghĩa” vẫn luôn được đề cập trong việc giáo huấn con người. Ý nghĩa phƣơng pháp luận của Đạo gia Tư tưởng của Đạo gia giúp con người tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự nhiên thuần phác, vốn có của nó. Đồng thời, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền. Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia cho ta thấy rằng, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các quy luật tự nhiên vào cuộc sống. Tư tưởng này, giúp con người có tinh thần bảo vệ thiên nhiên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý để phục vụ lại mình. Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”… Đạo gia giúp con người biết cách tự tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống. Tư tưởng Đạo gia dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung, ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”… Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo 1. GVC.TS Bùi Văn Mưa, Đề cương chi tiết môn Triết học, Trường đại học kinh tế Tp.HCM. 2. TS Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa (Đồng chủ biên), Giáo trình đại cương Lịch Sử Triết Học, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM. 3. Hoàng Trung, Phần II: triết học Trung Quốc cổ- Trung đại 4. Vũ Ngọc Pha & Doãn Chính chủ biên, Triết học, 1, tr.83, 2003, NXB Chính trị Quốc gia, HN 5. Đồng Văn Quân, Lịch sử triết học, Đại Học Sư phạm Thái Nguyên, 1010 6. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học. Nxb Chính trị quốc gia, 1998. 7. Bùi Thanh Quất - Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2000. 8. Lịch sử triết học phương Đông (5 tập). Tác giả Nguyễn Đăng Thục, 9. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 Tài liệu từ Internet 1. http://caohockinhte.info 2. http://tailieu.vn 3. http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=cate gory&layout=blog&id=44&Itemid=162 4. http://maxreading.com/sach-hay/tu-tuong-dao-gia 5. http://www.advite.com/daoduckinh.htm 6. http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn1n2n4nqn3 1n343tq83a3q3m3237nvn Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia Nguyễn Ngọc Lan Oanh Trang 19 7. http://buuduc.blogspot.com/2009/03/ao-giao.html 8. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-trung- hoa/2216-tran-phu-hue-quang-so-sanh-khac-biet-hai-dong-tu-tuong-nam- bac-trung-quoc.html 9. http://docs.4share.vn/docs/14945/Nho_giao_va_anh_huong_cua_nho_gia o_o_Viet_Nam.html Mục lục
Quá trình hình thành và phát triểnTrong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,... Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ IV, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nho giáo nguyên thủyKinh Lễ Bức chân dung cổ nhất về Khổng Tử do họa sư Ngô Đạo Tử vẽ vào đầu thế kỷ VIII Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nếu xem Nho giáo như một tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Tuy nhiên, Nho giáo về cơ bản không được xã hội xem như một tôn giáo bởi Nho giáo không trả lời những câu hỏi cần thiết mà một tôn giáo có thể trả lời. Cho tới hiện nay, Nho giáo liệu có phải là một tôn giáo chính thức hay không vẫn là một đề tài tranh luận. Mục tiêu của Nho giáo nguyên thủy theo sách Đại Học là:
Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa".[5] Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.[6]". Tống NhoBài chi tiết: Tống Nho
Khởi đầu Hàn Dũ và Lý Ngao (李翱, 772-841) thời nhà Đường có những ý tưởng mới bổ sung cho Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và Mạnh Tử. Đến thời Tống, Nho giáo có sự phát triển đáng kể. Các nhà triết học thời kỳ này như Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Chu Hy, Lục Cửu Uyên, Trần Lượng... đã đưa những khái niệm và triết lý mới vào Nho giáo tạo nên một trường phái Nho giáo có nhiều điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử và các học trò của ông. Các học giả Tống Nho khai thác các nội dung của Kinh dịch, Phật giáo, Đạo giáo để giải thích nguồn gốc vũ trụ và các nội dung kinh sách của Nho gia. Họ cho rằng thế giới do "lí" (tinh thần) và "khí" (vật chất) tạo thành, trong đó lí có trước, thuộc về phái duy tâm khách quan theo cách phân loại của phương Tây. Chu Đôn Di (1016-1073) cho rằng nguồn gốc thế giới là thái cực, thái cực sinh ra âm dương, ngũ hành, trời đất, con người, vạn vật, trước thái cực không có vật chất mà chỉ có "lý". Chu Hy (1130-1200) dùng quan điểm lý học để chú giải lại các nội dung của kinh sách Nho học, ví dụ cho rằng nhân nghĩa lễ trí là biểu hiện của "lý". Vì vậy, Tống Nho còn được gọi là "Lý học"[7]. Tống Nho là một nỗ lực để tạo ra một hình thức duy lý và siêu hình của Nho giáo bằng cách loại bỏ các yếu tố mê tín và thần bí của Đạo giáo và Đạo Phật đã ảnh hưởng đến Khổng học trong và sau thời nhà Hán [8]. Người ta cố gắng trừu tượng hóa các quan điểm đạo đức của Nho giáo thành các khái niệm và mệnh đề triết học. Mặc dù các nhà triết học Tống Nho đã phê bình Đạo Lão và Phật giáo[9] nhưng cả hai tôn giáo này đều có ảnh hưởng đến Tống Nho. Những nhà triết học thuộc trường phái Tống Nho đã vay mượn các thuật ngữ và khái niệm từ Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, không giống như Phật giáo và Đạo giáo, người đã nhìn thấy siêu hình học như một chất xúc tác cho sự phát triển tinh thần, giác ngộ tôn giáo và sự bất tử. Các nhà triết học Nho giáo đã sử dụng siêu hình học như một hướng dẫn để phát triển một triết lý đạo đức duy lý[10]. Phong trào phục hưng Nho giáoĐến thế kỷ XX, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ XXI, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á. Trong quá trình toàn cầu hóa, sự giao thoa văn hóa Đông Tây diễn ra, các giá trị đạo đức của Nho giáo có thể xem là các giá trị phổ biến của nhân loại[11]. Tượng Khổng thánh tại Yushima Seido, Tokyo, Nhật Bản. Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội[12]. Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao.[13] Từ năm 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.[14][15] Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngày 24 tháng 9 năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến dự và phát biểu tại "Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế giới" nhân kỷ niệm 2565 năm ngày sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự hoạt động trên. Ông nhấn mạnh: Tư tưởng triết học phong phú, tinh thần nhân văn, giá trị đạo đức của Văn hóa truyền thống Trung Quốc là gợi ý hữu ích cho việc trị quốc. Nho giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, có sức sống lâu dài, chứa đựng các gợi ý quan trọng giúp giải quyết những vấn đề của loài người hiện đại. Các tư tưởng "thiên hạ vi công, thế giới đại đồng", "dĩ dân vi bản, an dân phú dân lạc dân", "Nhân giả ái nhân, Dĩ đức lập nhân"… cần phải được kế thừa và phát huy. Ông nói: nghiên cứu Nho giáo chính là là để hiểu đặc tính dân tộc của người Trung Quốc, cần hấp thu sức mạnh truyền thống, việc quản trị quốc gia thời hiện đại càng cần có sự nâng đỡ của văn hóa truyền thống. Giáo sư Vương Kiệt ở Trường Đảng Trung ương Trung Quốc nhấn mạnh: sự du nhập văn hóa phương Tây đã khiến dân tộc Trung Hoa dần bị tha hóa, suy đồi về văn hóa và đạo đức, Đảng Cộng sản Trung Quốc dần nhận ra giá trị to lớn của văn hóa truyền thống Trung Quốc, hiểu rằng chỉ có kiên trì chủ nghĩa Mác, kế thừa có phê phán nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì nguyên tắc “cổ vi kim dụng”, “dương vi trung dụng” thì mới có thể thực hiện sự nghiệp phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Sức mạnh cứng (kinh tế và quân sự) rất quan trọng, nhưng sức mạnh mềm như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tinh thần, giá trị quan… cũng quan trọng không kém với một đất nước. Nếu đất nước đánh mất văn hóa, nền tảng đạo đức truyền thống thì dù kinh tế có giàu mạnh đến đâu thì cũng chẳng khác nào mất nước, mất dân tộc.[16] Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".[17] Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.[17] Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: “Ngày nay, xã hội đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong“. Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho giáo Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế “Nho giáo với xã hội tương lai” ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức “Nhân”, “Lễ”, "Nghĩa" của Nho giáo. Trong mấy chục năm trở lại đây, một số nhà nghiên cứu Việt Nam còn nhầm lẫn về bối cảnh xuất hiện, bản chất, nội dung và vai trò của Khổng giáo. Khổng giáo nói riêng và Nho giáo nói chung cần tiếp tục được nhận thức đúng đắn hơn[18]. Cần phải tiếp thu có chọn lọc, để có thể gạt bỏ những yếu tố tiêu cực và sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng Việt Nam ngày càng văn minh, giàu đẹp và hiện đại[19]. Tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội đã khởi động dự án dịch Nho tạng ra tiếng Việt[20]. Năm 2020, khi thế giới diễn ra đại dịch COVID-19, các nước châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề trong khi các nước Đông Á khống chế dịch bệnh khá tốt. Cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam (2012-2016), ông Jean-Noël Poirier đã có bài viết "Kỷ luật Nho giáo và phi trật tự châu Âu" đã phân tích[21]:
Sự khác biệt giữa Nho giáo và Đạo giáoự khác biệt chính giữa Nho giáo và Đạo giáo là ở trọng tâm của mỗi triết lý vì Nho giáo tập trung vào xã hội trong khi Đạo giáo tập tru Nho giáo vs Đạo giáoSự khác biệt chính giữa Nho giáo và Đạo giáo là trong trọng tâm của mỗi triết học vì Nho giáo tập trung vào xã hội trong khi Đạo giáo tập trung vào tự nhiên. Mặc dù Phật giáo tiếp tục là tôn giáo chính của Trung Quốc, Nho giáo và Đạo giáo là hai triết lý thống trị ở Trung Quốc đã rất lâu đời và tiếp tục tồn tại từ khoảng năm 550 trước Công nguyên. Đối với một người quan sát bình thường, những triết lý này có thể nhìn đối diện nhau, nhưng từ một góc độ khác, chúng cũng bổ sung cho nhau. Chúng được coi là những cách khôn ngoan để tiếp cận cuộc sống và giải quyết vô số vấn đề và thách thức cuộc sống ném vào cá nhân. Có nhiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa hai triết lý này gần như có địa vị của các tôn giáo. Bài viết này cố gắng xóa tan những nghi ngờ này bằng cách nhấn mạnh sự khác biệt giữa Đạo giáo và Nho giáo. Người ta thấy rằng những người theo một trong hai triết lý cũng thực hành các nguyên tắc của triết học kia. Một điều rõ ràng là cả hai vẫn duy trì triết lý chứ không phải là tôn giáo chính thống. Hai triết lý nảy sinh trong cùng thời kỳ được gọi là Trăm trường phái tư tưởng, đó là thời kỳ được đặc trưng bởi các khuynh hướng xung đột nội bộ và phong kiến. Sự bất hòa này được phản ánh trong cả Nho giáo cũng như Đạo giáo khi cả hai tìm cách cung cấp sự an ủi và ánh sáng dẫn đường cho mọi người trong cuộc sống của họ. Một điều vận hành như một chủ đề chung trong cả hai triết lý là, mặc dù có nguồn gốc từ Trung Quốc, cả hai đều có một thế giới quan và có bản chất phổ quát. Tiểu luận: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo giaTiểu luận: Nét tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo gia nhằm giới thiệu chung về Nho gia và Đạo gia, sự tương đồng giữa Nho Gia và Đạo gia, nét đặc thù của hai dòng tư tưởng Nho gia và đạo gia. Những ảnh hưởng của học thuyết Nho gia và Đạo gia đến xã hội Việt Nam. » Xem thêm Tóm tắt nội dung tài liệu
|