36 sự kiện lịch sử tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội (kỳ 19)

Nhà Nguyễn xây dựng Kỳ Đài (Cờ Cờ) vào năm 1805. Kỳ Đài được tạo thành từ một thân trụ là 18. cao 2 mét, sàn mái rộng 3. cao 3 mét, và ba bục mỗi 3. cao 1 mét. Kỳ Đài có bốn cửa. phía đông là cửa Nghênh Húc (đón sáng), phía nam là cửa Hướng Minh (hướng về cõi sáng), phía tây là cửa Hội Quang (ánh sáng trở về), cửa phía bắc. Tổng chiều cao của Kỳ Đài là 33. 4 m, trên đỉnh có cột cờ cao 8 m. Kỳ Đài nằm giữa hai cửa Đoan Môn quay về hướng đông, nam, đông nam

Năm 618, nhà Tùy mất, Lý Uyên trở thành người sáng lập nhà Đường. Nhà Đường là thời kỳ đỉnh cao, hưng thịnh nhất của chế độ phong kiến ​​ở Trung Quốc. Đối với đất cũ Âu Lạc, nhà Đường củng cố thêm một bước về mặt hành chính. Năm 679, Giao Châu được đổi thành An Nam đô hộ phủ do một thống đốc quân sự đứng đầu. Dưới phủ là châu, gồm 12 châu, 59 huyện. Đô đốc Giao Châu có 8 quận, nay thuộc Hà Nội, Nam Định; . Tiểu Hương từ 50 đến 160 hộ, Đại Hương từ 160 đến 670 hộ; . Như vậy, nhà Đường đã củng cố cấp cơ sở và chia thành các đơn vị nhỏ hơn để dễ cai quản. Tuy nhiên, nhà Đường chỉ kiểm soát cấp huyện. Thế kỷ IX, nhà Đường đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải Thiết trấn, do Tĩnh Đô sứ đứng đầu. Vào nửa cuối thế kỷ thứ 9, nhà Đường đặt riêng một thống đốc quân sự cho Âu Lạc. Như vậy, thời Đường, vùng Hà Nội cũ thuộc Thứ sử Giao Châu. Các Thứ sử, Ngự sử, Huyện lệnh đời Đường từng cai quản Đại La, các phủ, huyện ở nước ta. Khâu Hòa, Kỷ Đại Lương, Lý Thọ, Lỗ Tổ Thượng, Lý Đạo Hưng, Lý Đạo Ngạn. , Lý Giám, Liễu Sở Hiên, Đỗ Chính Luân, Đậu Đức Minh, Ninh Dật, Chu Toại Lương, Sái Triết Uy, Lăng Dư Khanh, Lưu Diên Hựu, Khúc Lâm, Trương Thuận, Trương Bá Nghị, Lưu Hựu, Quang Sở . Tổng cộng có 65 vị quan trong hơn 229 năm cai trị của nhà Đường. [1]

Nhà Đường dời trung tâm, cơ quan đầu não của chính quyền đô hộ từ Luy Lâu về Long Biên (Giao Châu) đổi là Đại La. Để bảo vệ kinh thành, ngăn lũ lụt, các thế hệ Văn Miếu đã ra sức huy động sức người, sức của, xây dựng thành Đại La, trong đó Cao Biền (Cao Vương) làm quân sư từ năm 856, hoàn thiện tôn nghiêm. tạo cái này. Cao Biền còn cho nạo vét sông Tô Lịch, làm xung quanh thành Đại La có đường thủy thuận tiện. Từ cửa sông Tô, thuyền có thể đi về phía Bắc kinh thành, xuôi khu vực Cầu Giấy đến phố Vọng, qua Kim Ngưu rồi đến sông Nhị. Đồng bằng sông Nhị bên ngoài thành Đại La cho mùa màng tươi tốt, lương thực dồi dào, giao thông đi lại thuận tiện, Đại La trở thành một thành phố buôn bán sầm uất, thuyền đậu san sát hai bên sông, hàng hóa trên ghe, thuyền tấp nập. Hai bên sông tấp nập hàng quán. Nhà Đường củng cố kinh thành, tăng quân bóc lột, đàn áp nhân dân ta. Trong thời nhà Đường suy yếu, Đại La còn hứng chịu những cuộc tấn công tàn khốc của quân xâm lược Nam Chiếu (nay thuộc Vân Nam Trung Quốc, trước thế kỷ 13 là vương quốc của người Thái) vào các năm 816, 832, 846, 853, 858, 862. Năm 863 quân Nam Chiếu chiếm được kinh thành, thực dân Trung Quốc tháo chạy, một số chạy về nước. Người dân trong thành bị cướp bóc, tàn sát, hàng vạn người bị đuổi về Nam Chiếu. Nhân dân thành Đại La kiên cường chống quân xâm lược Nam Chiếu. Năm 865, Cao Biền đánh tan quân Nam Chiếu nhưng lại quay sang trấn áp nhân dân, chấn chỉnh lại nền cai trị của nhà Đường, đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải Triều trấn do Tiết độ sứ đứng đầu. Từ đây bắt đầu đăng cơ làm quân sư cho nước Âu Lạc

SỰ KIỆN 5. HÀ NỘI – ĐẠI LA – THỦ ĐÔ CỦA TUỔI TỰ

Cuối thế kỷ VIII, nhà Đường suy yếu. Nhân cơ hội đó, các tộc trưởng của giai cấp phong kiến ​​Việt Nam đã nổi dậy giành quyền tự chủ. Năm 766, Phùng Hưng từ Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội ngày nay) kéo quân đánh chiếm thành Đại La. Quan nhà Đường Cao Chính Bình sợ chết. Đại La thành kinh đô thời Phùng Hưng tự chủ 7 năm. Nhân dân ta tôn Phùng Hưng làm Phụ-Cái Đại Vương (vua cha vua mẫu). [2]. Năm 773, Phùng Hưng mất, con là Phùng Hải lên thay. Năm 791, nhà Đường phản công. Phùng Hải thất bại. Thành Đại La rơi vào tay nhà Đường sau 25 năm giữ vững nền tự chủ. Năm 806 Dương Thanh cùng 3000 quân nổi dậy chiếm thành Đại La, giết chết sứ thần nhà Đường. Cuộc khởi nghĩa bị tướng nhà Đường Quế Trọng Vũ đàn áp

Năm 906, nhân cơ hội nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc bước vào tình thế năm đời mười nước suy yếu, loạn lạc. Nhân cơ hội đó, một tuần phủ Khúc Thừa Dụ ở Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) nổi dậy giành quyền tự chủ, xưng là Tước sứ. Thành Đại La trở thành trung tâm của chính quyền tự quản họ Khúc. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay cha. Khúc Hạo tiến hành cải cách hành chính, chia nước ta thành các lộ, phủ, châu, hương, giáp, xã. Như vậy Khúc Hạo là người đầu tiên ở nước ta cải cách hành chính, xây dựng chính quyền tự chủ thống nhất lấy Đại La làm trung tâm. Tuy ta chỉ xưng làm quan nhà Đường, sau là nhà Hậu Lương (tài thao lược của ta lúc bấy giờ) nhưng nhân dân ta có toàn quyền làm chủ đất nước. 1.000 năm phong kiến ​​Trung Quốc thống trị nước ta trên thực tế đã chấm dứt

Năm 917, Khúc Hạo qua đời, con là Khúc Thừa Mỹ nối ngôi cha. Năm 923 nhà Nam Hán, một trong 10 nước phía nam Trung Quốc do con cháu nhà Hán sáng lập, lãnh thổ Quảng Đông, kinh đô Phiên Ngung (Quảng Châu), sai tướng Lý Khắc Chính sang xâm lược, Khúc Thừa Mỹ thất thủ. bị đánh bại và bị bắt. Thành Đại La rơi vào tay quân xâm lược. Năm 931, Dương Đình Nghệ, một hào kiệt ở đất Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), là tướng họ Khúc, đánh tan quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị tướng Kiều Công Tiễn giết để đoạt chức Tiết độ sứ, cầu cứu quân Nam Hán để bảo vệ ngôi vị của mình. Nhà Nam Hán lập tức huy động hai đạo quân tiến vào nước ta. Nam Hán vương Lưu Cung đích thân chỉ huy bộ binh đóng ở Hải Môn, Bác Bạch, Quảng Đông sẵn sàng yểm trợ thủy quân do Thái tử Hoằng Thao chỉ huy tiến vào sông Bạch Đằng. Nền tự chủ non trẻ vừa giành được lại bị thù trong, giặc ngoài đe dọa

Trước tình thế nguy ngập, tháng 11.1938, Ngô Quyền quê ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội ngày nay), Tổng đốc Ái Châu lúc bấy giờ là con rể Dương Đình Nghệ vội kéo quân ra Đại La. . Kẻ phản bội Kiều Công Tiễn đã chết. Tiếp đó, Ngô Quyền cho đóng cọc gỗ nhọn, bịt sắt, đóng ở cửa sông Bạch Đằng, bố trí mai phục, nhử thủy quân Nam Hán tiến vào tiêu diệt hết, tướng giặc là Lưu Hoằng Thao bị giết. Nghe tin thủy quân bại trận, con trai bị giết, Lưu Công vô cùng sợ hãi, khóc lóc vội vàng rút về Phiên Ngung, từ bỏ âm mưu xâm lược. Trận chiến quyết định chiến lược Bạch Đằng cứu Đại La khỏi thảm họa. Kiều Công Tiễn bị giết vì thành Đại La không phải là nơi nương tựa của những kẻ phản quốc. Chiến thắng Bạch Đằng của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1.000 năm đô hộ của phong kiến ​​Trung Hoa, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, một thời kỳ dựng nước độc lập lâu dài của phong kiến.

(Còn nữa)

CVL

—————–

[1] Hoàng Đình Long. Quất Khôi. NXB Thế giới. h. 2008. P. 68, 69, 70, 71

[2] Lăng Phùng Hưng hiện còn ở Kim Mã, đền thờ Phùng Hưng ở Quảng Bá, Thịnh Hào, Triều Khúc, Hà Nội

Điều gì đã xảy ra ở Hà Nội trong Chiến tranh Việt Nam?

Trong Chiến tranh Việt Nam, việc Hoa Kỳ ném bom Hà Nội vào các năm 1965, 1968 và 1972 đã gây thiệt hại nặng nề . Sau sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Bắc Việt Nam đã mở rộng quyền kiểm soát trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Hà Nội Việt Nam được biết đến với cái gì?

Hà Nội là thủ đô của Việt Nam và là một thành phố rất sầm uất. Chắc hẳn bạn đã biết rằng thành phố này được đông đảo khách du lịch yêu thích vì lưu giữ di sản kiến ​​trúc hàng thế kỷ trên vùng đất của nó . Đây là nơi bạn có thể trải nghiệm các nền văn hóa bản địa của nó.

Hà Nội bây giờ gọi là gì?

Trong thời hiện đại, thành phố thường được gọi là Thăng Long – Hà Nội khi thảo luận về lịch sử lâu đời của thành phố. Thời nhà Hồ gọi là Đông Đô (東都, "đông đô"). Trong thời nhà Minh chiếm đóng, nó được gọi là Đông Quan (東關, "cổng phía đông").

Hà Nội tượng trưng cho điều gì?

danh từ. một thành phố ở và thủ đô của Việt Nam, ở phần N, trên sông Songka