Dạy học theo mô hình phân hóa ở tiểu học năm 2024

T11-N5-K6 Thứ Tư ngày 13 tháng 9 năm 2023 CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC BÀI 1: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC Phần 5: Phương pháp dạy học phân hoá trong môn Toán ở Tiểu học I. MỤC TIÊU A. Sau bài học, người học:

  • Trình bày được các quan niệm, đặc điểm cơ bản, cơ sở khoa học và quy trình vận dụng một số phương pháp dạy học thông dụng trong quá trình dạy học toán ở các trường tiểu học.
  • Đưa ra được các ví dụ minh hoạ phù hợp và phân tích được các nội dung có liên quan đến mỗi phương pháp dạy học.
  • Quan tâm thường xuyên và chú trọng tìm cách vận dụng có hiệu quả nhất các phương pháp dạy.
  • Giới thiệu và phân tích sâu khả năng vận dụng, khai thác một số phương pháp dạy học đang được sử dụng rộng rãi trong quá trình dạy học toán ở các trường tiểu học Việt Nam. B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC. I. NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HOÁ Dạy học phân hoá là một hình thức dạy học mà người dạy dựa vào những khác biệt về năng lực, sở thích cũng như các điều kiện học tập của mỗi cá nhân người học để điều chỉnh cách dạy phù hợp nhằm phát triển tốt nhất cho từng cá nhân người học đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất. Dạy học phân hoá được coi là một hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh, được hiểu là quá trình giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh bao gồm:
  • Huy động mọi khả năng của từng học sinh để tự học sinh tìm tòi khám phá ra những nội dung mới.
  • Phân hoá học sinh theo trình độ nhận thức, giao nhiệm vụ phù hợp với từng nhóm đối tượng, tạo điều kiện để học sinh tự phát hiện ra các tình huống có vấn đề, tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp lập kế hoạch hợp lí nhất để giải quyết vấn đề.
  • Tập trung mọi cố gắng để phát triển năng lực, sở trường của mỗi cá nhân tạo cho học sinh cơ niềm tin và niềm vui trong học tập. Dạy học phân hoá có hai dạng cơ bản:
  • Phân hoá tổ chức: Là hình thức dạy học theo các nhóm đối tượng khác nhau được tổ chức thành các nhóm học ngoại khoá, lớp chọn, trường chuyên,... và được dạy theo chương trình riêng cho mỗi nhóm đối tượng.
  • Phân hoá nội tại: Là hình thức vận dụng các biện pháp phân hoá thích hợp trong một lớp học thống nhất với cùng một kế hoạch học tập, cùng một nội dung chương trình, sách giáo khoa II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
  • Cơ sở triết học Dạy học phân hoá xuất phát từ quy luật biện chứng về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; cặp phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất. Đây chính là cơ sở triết học của dạy học phân hoá. Sự phân hoá trong quá trình dạy học thể hiện ở trình độ nhận thức, năng lực, sở thích và nguyện vọng của từng học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy học giáo viên không chỉ chú ý đến những mặt, những thuộc tính chung của chủ thể học sinh (đặc điểm tư duy, nhân cách, hoạt động nhận thức, điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh,...) – tức là cái chung; mà còn phải quan tâm đến từng cá thể người học (xu hướng, tâm lí cá nhân,...) – tức là cái riêng.

Trong mối quan hệ biện chứng đó, nếu quan tâm đầy đủ, kịp thời đến trình độ riêng của từng học sinh thì đây sẽ là cơ sở thuận lợi để phát huy năng lực, thế mạnh riêng của từng học sinh. Đồng thời, nếu quan tâm kịp thời đến trình độ chung của cả lớp thì đây là cơ sở thúc đẩy trình độ học tập chung của cả lớp nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục đã đề ra. 2. Cơ sở tâm lí học Cơ sở tâm lí của phương pháp dạy học phân hoá là dựa theo thuyết đa trí tuệ: Mỗi con người có nhiều khả năng phát triển ở những lĩnh vực khác nhau. Có thể minh hoạ cơ sở tâm lí học của phương pháp dạy học phân hoá qua ví dụ sau: Bài toán: (Sách Toán 3, tập 2; Chủ đề 9; Bài 53; Câu 4, trang 36).

Với những trạng thái tâm lí được diễn ra dưới dạng các câu hỏi của các học sinh rất khác nhau như vậy, người giáo viên cần biết được tâm trạng và mong muốn của từng học sinh để thiết kế được quả trình dạy học hỗ trợ phù hợp cho mỗi học sinh tự tìm được lời giải của bài toán.

  1. Cơ sở giáo dục học

Cơ sở giáo dục học của dạy học phân hoá thể hiện ở nguyên tắc dạy học phải đảm bảo tính vừa sức, phát huy tối đa tính tích cực của mỗi cá nhân học sinh.

Minh hoạ cơ sở giáo dục học của dạy học phân hoá thông qua ví dụ dưới đây:

Bài toán: (Sách Toán 4, tập 1; Chủ đề 5; Bài 25; Câu 2, trang 87).

Đây là bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Tuy nhiên, không phải tất cả học sinh đều nhận dạng được ngay bài toán. Để tạo được một môi trường học tập tích cực, phù hợp với nhiều loại trình độ học tập của học sinh trong lớp, người giáo viên cần xử lí tình huống sư phạm có hiệu quả ngay từ thao tác dạy học đầu tiên. Có thể thu hút sự chú ý và kích thích hứng thú học sinh trong lớp tham gia giải bài toán trên đây bằng cách đưa ra các yêu cầu khác nhau trong tóm tắt bài toán:

  • Ai có thể đọc lại đề toán?
  • Ai có thể tóm tắt đề toán đã cho?
  • Bài toán cho biết gì và yêu cầu tìm gì?
  • Ai có thể gạch chân những từ quan trong trong đề toán?
  • Ai có thể tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng?

-Mục tiêu: HS vận dụng, củng cố cách giải bài toán “Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai số đó”

-GV có thể gợi ý HS lựa chọn giữa hai phép tính là tìm số bé hoặc tìm số lớn trong khi làm bài.

Phương pháp giải:

  • Tìm số bé trước: Số bé = (Tổng – Hiệu) : 2
  • Tìm số lớn trước: Số lớn = (Tổng + Hiệu) : 2

Tóm tắt:

Bài giải: Hai lần số học sinh đợt 2 là: 175 – 15 = 160 (bạn) Số học sinh đợt 2 là: 160 : 2 = 80 (bạn) Số học sinh đợt 1 là: 175 – 80 = 95 (bạn) Đáp số: Đợt 1: 95 bạn; Đợt 2: 80 bạn.

Như vậy, người giáo viên đã tạo ra những tình huống có mức độ yêu cầu khác nhau trong bước đầu tiên giải bài toán giúp cho mỗi học sinh trong lớp đều có cơ hội tiếp cận tham gia giải bài toán. Với kĩ thuật hướng dẫn này, người giáo viên vừa đảm bảo tính vừa sức vừa đạt được sự công bằng trong cơ hội tiếp cận giáo dục. III. BẢN CHẤT CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA (1) Lấy trình độ chung của học sinh trong lớp làm nền tảng

Trong dạy học toán, giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của học sinh trong lớp làm nền tảng, phải hướng vào những yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức kĩ năng để điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp. Giáo viên phải biết lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với trình độ và điều kiện chung của lớp. Có thể phải lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu cơ bản đặt ra hoặc cũng có thể phải bổ sung những nội dung cần thiết để phát triển tư duy cho học sinh. Ví dụ: Giáo viên lựa chọn ra bài tập phù hợp với trình độ và điều kiện chung của cả lớp để phù hợp với khả năng của tất cả các em. Ngoài việc giảng

(2) Đưa học sinh yếu lên trình độ trung bình

Trong dạy học phân hoá, nếu lớp có học sinh diện yếu, kém thì giáo viên cần sử dụng các biện pháp để đưa những học sinh đó có đủ khả năng đạt được những yêu cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng. Đối với những học sinh này, cần phải hạ thấp yêu cầu so với học sinh diện đại trà, giáo viên cần kèm riêng từng cá nhân để các em có thể theo kịp trình độ chung của học sinh cả lớp. Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh yếu kém trong lớp giải các bài toán có văn, nếu có học sinh yếu về cách đặt lời giải thì giáo viên cần gợi ý trực tiếp với riêng cá nhân học sinh đó về cách đặt lời giải hoặc có thể thiết kế riêng phiếu bài tập có in sẵn câu lời giải, yêu cầu học sinh chỉ điền phép tính dưới lời giải. Điều này sẽ giúp học sinh yếu, kém ấy bù đắp được chỗ hổng về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. (3) Cần bổ sung bài tập cho học sinh khá, giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những yêu cầu cơ bản. Giáo viên là cần phải bổ sung những kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi bằng những dạng bài tập mang tính phát triển tư duy. Đối với những học sinh này, ngoài việc đạt được yêu cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng còn phải vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải toán nâng cao. Các dạng bài tập bổ sung cần đảm bảo yêu cầu sát với chuẩn kiến thức kĩ năng và phải vừa sức với học sinh. Nếu học sinh giỏi chỉ làm những bài cơ bản mãi thì kiến thức của các em ấy chỉ xoay vòng ở đấy. Vì thế, giáo viên cần sáng tạo bổ sung nhiều dạng bài tập mang tính tư duy, để học sinh có thể phát triển thêm kiến thức; gợi tính tò mò, tìm tòi, sáng tạo của các em. Đồng thời, định hướng xem các em giỏi nhất ở lĩnh vực nào, từ đó đào tạo phát triển các em hơn. III. NÊU QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HOÁ TRONG MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC. Tiến hành dạy học phân hoá theo các bước sau đây:

*Bước 1: Giáo viên tìm hiểu và đánh giá trình độ học tập chung của cả lớp cũng như của các loại đối tượng học sinh khác nhau ở trong lớp. Đặc biệt, giáo viên cần thấu hiểu được những đặc điểm tâm lí nguyện vọng và những băn khoăn, rào cản của đa số học sinh trong lớp

  • Giáo viên có thể kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng HS theo trình độ:
  • Kết hợp kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: giáo viên cần thận trọng khi đưa ra kết luận một học sinh nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Giáo viên nên có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành dạy học phân hoá phù hợp.
    • Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho học sinh tự đánh giá: Hiện nay giáo viên thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn, giáo viên thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là giáo viên ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, học sinh làm đúng được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích học sinh phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
    • Trong quá trình giảng dạy ở trường, vẫn còn có thầy cô giữ khoảng cách với học sinh, ít gần gũi, tâm tình với người học. Có giáo viên, trong suốt thời gian đảm nhiệm giảng dạy bộ môn của mình mà không nhớ nổi tên của những học sinh tích cực phát biểu ý kiến. Khi lên lớp giáo viên đó cứ mải miết truyền đạt những kiến thức của bài học, mà không nhận ra rằng nhân tố quan trọng để học sinh nắm được bài là cần có sự quan tâm, trao đổi, đàm thoại giữa người dạy với người học.
    • Đôi lúc, giáo viên không biết lắng nghe học sinh trong quá trình giảng dạy dẫn đến những rào cản giữa giáo viên và học sinh – đó là những phẩm chất mà bất cứ giáo viên nào cũng phải khắc phục. Biết lắng nghe những băn khoăn, trăn trở, tâm tình của học sinh là một biểu hiện của ứng xử có văn hóa.
    • Qua đó, giáo viên gần gũi hiểu được tâm tư, nguyện vọng và khả năng của học sinh để lựa chọn phương pháp phù hợp, giúp người học nắm vững bài học một cách thuận lợi nhất. Khi giáo viên trò chuyện cần phải có thái độ chân thành, cởi mở, sẽ lắng nghe được những lời góp ý khách quan, thành thật từ phía học sinh. *Bước 2: Căn cứ vào kết quả của bước 1, người giáo viên cần nhanh chóng tạo ra một môi trường học tập thuận lợi tích cực cho hầu hết các học sinh trong lớp, nhất là sự hứng thú và mong đợi được học tập của học sinh.
    • Bắt đầu bài giảng với một trò chơi: Thay vì vào bài trực tiếp thì các thầy cô hãy bắt đầu với một vấn đề mà có thể thu hút học sinh tham gia và đó cũng là cách hiệu quả nhất để học sinh nhanh chóng vào bài. Ví dụ, chuẩn bị một trò chơi liên quan đến bài giảng, một trò chơi khởi động hay đó là trò chơi giúp học sinh ôn lại bài cũ để làm học sinh thấy hứng thú ngay từ đầu.
    • Lồng ghép câu chuyện minh hoạ bài giảng:

rõ những học sinh “đặc biệt”. Với mỗi học sinh “đặc biệt”, giáo viên phải có cách thức phù hợp để các em không bị cô lập với nhóm, các em càng phải được giáo viên, nhóm trưởng và các bạn trong nhóm “quan tâm” nhiều hơn. Ngoài ra, giáo viên tạo cơ hội cho các nhóm trưởng cùng chia sẻ kinh nghiệm điều hành nhóm. Để mỗi nhóm, mỗi thành viên của nhóm phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình.

  • Trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo:
  • Với học sinh, không một tấm gương nào tốt hơn là giáo viên chủ nhiệm – người trực tiếp giảng dạy, chăm sóc, giáo dục, theo sát quá trình học tập cũng như rèn luyện của các em trong suốt một năm học. Bao giờ cũng thế, người thầy tốt sẽ sản sinh ra những học trò tốt. Giáo viên hãy là tấm gương trong mọi lĩnh vực: học tập (không thể dạy các em chăm học trong khi cô thì không chăm chỉ nghiên cứu, tìm tòi), sinh hoạt (giao tiếp, ăn mặc lịch sự, biết giữ vệ sinh môi trường,...), đạo đức (có lòng nhân ái mà trước hết là đối với học sinh lớp mình, trung thực trong dạy học, trong cuộc sống,...). “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi giáo viên có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một giáo viên chủ nhiệm như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực, ham học, thích đi học và đương nhiên tình trạng nói chuyện riêng hay mất trật tự trong lớp cũng được giảm thiểu phần nào. *Bước 3: Từ thực tế của học sinh trong lớp và đặc điểm của nội dung dạy học, người giáo viên sẽ cân nhắc sử dụng phương án dạy học phân hoá nào (phân hoá tổ chức hoặc phân hoá nội tại). Sau đó, triển khai các hoạt động cụ thể của phương án dạy học phân hoá đã lựa chọn. Dạ thưa cô Bước 3 nhóm chúng em không biết triển khai hoạt động nên chưa thể làm ạ. *Bước 4: Đánh giá kết quả của từng pha dạy học và bổ sung các điều chỉnh cần thiết để hoàn thiện quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu của quá trình dạy học.
  • Với mục tiêu chẩn đoán kết quả đạt được, định hướng điều chỉnh cho các công đoạn tiếp theo và khuyến khích, duy trì động lực học tập của các đối tượng học sinh, giáo viên có thể áp dụng một số biện pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh Tiểu học trong học tập môn toán theo hướng phân hóa như sau: Thứ nhất, đánh giá thường xuyên trong bài học: Đánh giá khởi đầu bằng các câu hỏi đã xác định mức độ khó dễ để yêu cầu học trả lời miệng hoặc thực hành làm các bài tập. Ở bước khởi đầu, giáo viên đánh giá học sinh thực hiện được tốt, đạt hay chưa tốt nội dung đã học ở các bài trước đó. Chẳng hạn, trước khi hình thành cách tính chu vi hình chữ nhật, giáo viên hỏi về hình chữ nhật có là hình tứ giác không? Cách tính chu vi hình tứ giác cụ thể khi cho trước số đo của bốn cạnh? Học sinh nêu được cách tính chu vi của hình tứ giác (thường là học sinh khá, giỏi) được đánh giá thực hiện tốt nội dung đã học. Học sinh trung bình hoặc yếu hơn sẽ thực hiện phép cộng các số đo khi đã biết cách tính chu vi. Tiếp theo là đánh giá trong và sau từng hoạt động, ở mỗi hoạt động thường có ít nhất một câu hỏi, bài tập dùng để đánh giá kiến thức, kỹ năng của học sinh, giáo viên căn cứ vào mục tiêu của hoạt động để đánh giá các mức độ hoàn thành, hoàn thành tốt hay chưa hoàn thành sản phẩm ở mỗi hoạt động. Ví dụ: ở mức độ hoàn thành chuẩn kiến thức kĩ năng bài chu vi hình chữ nhật là học sinh tính đúng chu vi hình chữ nhật khi biết số đo chiều dài và chiều rộng. Học sinh hoàn thành tốt khi thành thạo trong chuyển đơn vị đo, tính chu vi hình chữ nhật và vận dụng giải quyết một số tình

huống thực tế liên quan đến cách tính chu vị hình chữ nhật, ... Sau cùng là đánh giá ở thời điểm cuối bài, nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi học xong bài đó. Tùy theo mỗi bài học, giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi hay số lượng bài tập để học sinh củng cố, luyện tập. Từ đó, giáo viên có thể đánh giá sâu hơn mức độ nhận thức bài học của mỗi đối tượng học sinh.

  • Thứ hai, đánh giá sau từng giai đoạn học tập: đánh giá sau mỗi chủ đề, đánh giá giữa học kỳ, đánh giá cuối học kỳ và đánh giá cuối năm học. Trong môn toán, để đánh giá học sinh sau từng giai đoạn học tập, giáo viên thường sử dụng hệ thống bài tập, khoảng từ 5 đến 7 bài sắp xếp theo mức độ dễ đến khó. Căn cứ vào kết quả thực hiện của học sinh, giáo viên có thể đối chiếu với kết quả đánh giá thường xuyên trong bài học. Từ đó, đánh giá được năng lực tự học của mỗi học sinh, đồng thời có thể định hướng học tập cho học sinh và phân hóa đối tượng trong giai đoạn dạy học tiếp theo.
  • Như vậy, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng phân hóa nhằm mục đích nhận định thực trạng và định hướng, điều chỉnh hoạt động học của học sinh. Đồng thời, nhận định thực trạng, định hướng, điều chỉnh hoạt động dạy của thầy, góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học.

IV. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA

  • Ưu điểm:
  • Dạy học phân hoá tạo ra một môi trường học tập tích cực: gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xoá bỏ được mặc cảm, tự ti của học sinh yếu, kém khi tham gia vào bài học, kích thích được học sinh giỏi phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong học tập.

 Khác với việc học truyền thống, thay vì quá thụ động trong việc tiếp thu kiến thức thì dạy học phân hoá sẽ giúp các em huy động mọi khả năng của từng HS để tự HS tìm tòi, khám phá ra những nội dung mới của bài học. Từ đó, tập trung mọi cố gắng để phát triển năng lực, sở trường của mỗi HS, tạo cho HS có niềm tin và niềm vui trong học tập. Tạo ra môi trường học tập tích cực.  Vấn đề đặt ra là đối với lớp khá giỏi dạy như thế nào, lớp trung bình dạy cách nào và với lớp yếu kém thì phương pháp ra sao? Đối tượng HS yếu kém cần được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn đối tượng HS khá giỏi, những câu hỏi vấn đáp đưa ra cần có sự gợi mở, chẻ nhỏ. Nhưng không có nghĩa là đối tượng HS khá giỏi không được quan tâm mà việc quan tâm đến đối tượng HS khá giỏi chỉ hạn chế tạo điều kiện cho nhóm này phát huy tối đa tính tự giác, độc lập, sáng tạo của các em.

  • Dạy học phân hoá thực hiện được mô hình dạy học tiến bộ: phát huy tốt khả năng cá thể hoá hoạt động của người học, đưa người học trở thành chủ
  • Dạy học phân hoá tăng cường sự hiểu biết và gắn bó giữa thầy giáo với từng học sinh trong lớp, đề cao vai trò cá nhân của học sinh trong các hoạt động giáo dục, tôn trọng những khác biệt về nhu cầu, xu hướng, ý kiến của người học.

 Dạy học phân hoá tạo ra môi trường học tập tích cực, tăng cường thúc đẩy sự giao lưu, gắn bó giữa thầy và trò.  Cho trẻ em lựa chọn có nghĩa là chúng phải chịu trách nhiệm nhiều hơn cho việc học của bản thân.  Học sinh chủ động hơn trong việc học vì trong dạy học phân hóa, các em là những cá nhân có cơ hội phát triển như nhau.

  • Hạn chế:

Để dạy học phân hoá có hiệu quả - thực sự là một thách thức của cả thầy và trò.

  • Phương pháp này đòi hỏi ứng xử sư phạm kĩ năng cao nhất (phân hoá đối tượng học sinh; định hướng, gợi mở, khích lệ,...), giáo viên phải có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn, phải phân hoá được đối tượng học sinh, phải chuẩn bị cho tiết học rất công phu, dự kiến những hoạt động dạy học dựa vào những hiểu biết những nhu cầu và hứng thú của đối tượng học sinh mình giảng dạy; giáo viên phải có nghệ thuật điều khiển thời gian, cùng một lúc giáo viên phải quản lí tốt các nhóm học tập đang đồng thời thực hiện nhiệm vụ khác nhau. Nếu không quản lí điều hành hợp lí và có chất lượng có thể gây căng thẳng không cần thiết hoặc gây nhàm chán cho cả thầy và trò thậm chí còn làm giảm chất lượng của hoạt động dạy và học so với biện pháp dạy học khác.

 Sĩ số lớp học hiện nay quá đông (mỗi lớp thường trên 35 HS), nên việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.  Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GVTH hiện nay chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH.  GVTH phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.

  • Dưới sự hỗ trợ, tư vấn của giáo viên, học sinh phải tự tạo cho mình động lực học tập và phải có quyết tâm bền bỉ xuyên suốt cả quá trình học tập.

 HS tiểu học chưa ý thức về việc học vẫn còn gia đình quản thúc học tập nên khi áp dụng PPDHPH thì các phải tự tạo cho mình động lực và quyết tâm học tập

 Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lý đối với HS khi bị xếp vào nhóm yếu kém cũng như tâm lý lo lắng của phụ huynh HS.

  • Nếu ứng dụng được công nghệ thông tin và truyền thông có thể dẫn đến khả năng phân hoá cao trong quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả học tập của học sinh.

 Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu phương tiện kỹ thuật, đồ dùng dạy học,... nên trong quá trình dạy học không đạt được hiệu quả hư mong muốn

  1. QUAN HỆ CỦA DẠY HỌC PHÂN HOÁ VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KHÁC TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
  1. Dạy học phân hoá trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
  • Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, đặc biệt là trong những tình huống dạy học các khái niệm, các tri thức mới. Nếu trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt, giáo viên kết hợp phân hoá đối tượng học sinh sẽ giúp mọi học sinh cũng được tham gia khám phá tri thức mới tuỳ theo khả năng nhận thức của từng cá nhân. Có nhiều ý kiến cho rằng, chỉ những học sinh khá giỏi, có năng lực học tập toán, có tư duy nhanh mới có khả năng khám phá những tri thức mới bằng phương pháp dạy học nêu vấn đề. Thực tế không hoàn toàn như vậy. Trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh đi tri thức mới, nếu giáo viên quan tâm đến những câu hỏi mang tính tái hiện, không đòi hỏi tư duy sâu sẽ giúp học sinh trung bình, yếu kém được cùng tham gia, hoà mình vào không khí học tập chung của cả lớp.

Ví dụ: Khi hình thành quy tắc Phép trừ hai phân số có cùng mẫu số (Toán 4, tập 2, trang 80)

  • Giáo viên có thể áp dụng dạy học phân hoá trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề như sau. Làm thế nào để thực hiện được phép trừ hai phân số cùng mẫu số đó?

Giáo viên gọi học sinh khá, giỏi đưa ra ý tưởng để thực hiện phép trừ, bên cạnh đó cũng cần gọi học sinh trung bình và yếu kém nhắc lại cách thực hiện phép cộng hai phân số cùng mẫu số.Việc làm đó sẽ giúp học sinh cả lớp hoà chung vào công việc đó là tìm ra cách thực hiện phép trừ hai phân số cùng mẫu số.

  • Trong dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, nếu vấn đề đưa ra không vừa sức, quá khó thì học sinh sẽ không được đặt vào tình huống có vấn đề để các em chủ động, sáng tạo tìm kiếm, phát hiện kiến thức dẫn đến học sinh chán nản, coi học tập như một chướng ngại vật khó vượt qua. Nếu vấn

khá, giỏi cũng thích thú thảo luận về so sánh điểm giống và khác nhau giữa hình bình hành và hình thoi,... Từ đó sản phẩm học tập được hoàn thành với sự tham gia tích cực của các đối tượng học sinh

Trong dạy học hợp tác nhóm, nếu giáo viên chia nhóm một cách phù hợp thì chính các học sinh trong nhóm có thể giúp nhau hoàn thành được nhiệm vụ học tập, đây là một vấn đề rất quan trọng nâng cao được hiệu quả dạy học. Vì vậy, có thể nói dạy học hợp nhằm và dạy học phân hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau.

  1. Dạy học phân hoá trong dạy học trực quan

Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp được sử dụng nhiều ở Tiểu học. Trong phương pháp này, giáo viên phải giúp học sinh thông qua những hình ảnh trực quan để xây dựng và hình thành trí thức mới. Thông thường, từ những tranh vẽ, những đồ vật thật hay những đoạn phim ảnh, giáo viên yêu cầu học sinh nêu nội dung, tên gọi của tranh vẽ, đồ vật hay đoạn phim, tiếp đó yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa của bức tranh hay đoạn phim hoặc đặc điểm, tính chất của đồ vật,... để hưởng vào nội dung bài học. Vì vậy, nếu giáo viên biết phân hoá đối tượng học sinh để đưa ra nội dung câu hỏi phù hợp thì sẽ giúp học sinh phối hợp cùng nhau xây dựng được bài một cách tốt nhất.

Ví dụ:

Khi dạy về Bài: Hỗn số (Toán 5; Trang 12), giáo viên cho học sinh quan sát trực quan (hình vẽ 2 cái bánh và ¾ cái bánh).

Khi yêu cầu học sinh nêu “nhận xét về số bánh không bị chia ra và số phần bánh bị chia ra” thì nên gọi học sinh yếu hoặc trung bình; còn khi yêu cầu học sinh rút ra kết luận về hỗn số thì nên yêu cầu học sinh khá giỏi. Hoặc khi tổ chức cho học sinh khám phá, ghi nhớ đặc điểm hình vuông ở lớp 3,

giáo viên có thể yêu cầu học sinh yếu “quan sát và nêu tên gọi của hình”, còn học sinh trung bình hoặc khá, giỏi sẽ khái quát nêu hai đặc điểm của hình vuông;... C. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH Ví dụ 1: Có thể minh họa kiểu dạy học phân hóa tổ chức trong dạy học Toán ở Tiểu học như sau:

Khi dạy học về dạng bài toán Tìm số trung bình cộng, giáo viên có thể chia học sinh trong lớp thành các nhóm có bốn trình độ học tập tương ứng với bốn bài toán như sau:

  1. Nhóm học sinh yếu, kém (nếu có): Giải bài toán theo mẫu hoàn toàn tương tự với bài toán đã được giáo viên hướng dẫn trên lớp. (Ví dụ: Sách Toán 4, tập 2; Chủ đề 8; Bài 46; Câu 1, trang 30).

Đáp án:

Mục tiêu: Bài tập này giúp HS củng cố về tìm số trung bình cộng của nhiều số Phương pháp giải bài toán này dựa vào định nghĩa sách giáo khoa: Muốn tìm số trung bình cộng của nhiều số, ta tính tổng của các số đó, rồi chia tổng đó cho số các số hạng. Bài toán này rất căn bản, học sinh chỉ cần nắm khái niệm tìm số trung bình cộng rồi áp dụng khái niệm, tính toán tìm ra số ghi ở nhụy hoa. Lời giải chi tiết: Số ghi ở nhụy hoa thứ nhất là: (28 + 24 + 26) : 3 = 26 Số ghi ở nhụy hoa thứ hai là: (13+ 15 + 17 + 19 + 21) : 5 = 17

Bước 1: Tìm số cái bánh giầy Rô-bốt làm được trong ngày thứ hai Bước 2: Trung bình mỗi ngày = Tổng số cái bánh giầy làm trong 2 ngày : 2 Tóm tắt: Ngày thứ nhất :20 cái bánh giầy Ngày thứ hai hơn ngày thứ nhất: 4 cái bánh giầy

Trung bình mỗi ngày : ... cái bánh giầy?

Bài giải: Số cái bánh giầy Rô-bốt làm được trong ngày thứ hai là: 20 + 4 = 24 (cái) Trung bình mỗi ngày Rô-bốt làm được số cái bánh giầy là: (20 + 24) : 2 = 22 (cái) Đáp số: 22 cái bánh giầy.

  1. Nhóm học sinh giỏi: Bài toán mang tính đánh đố học sinh nhằm giúp học sinh tư duy, suy luận. (Ví dụ: Sách Toán 4, tập 2; Chủ đề 8; Bài 46; Câu 4, trang 30).

Mục tiêu: Bài tập này nhằm giúp học sinh củng cố về tìm số trung bình cộng của hai số. Phương pháp giải:

  • Tìm tổng hai số của Mai và Rô-bốt viết = Số trung bình cộng x 2
  • Số của Rô-bốt viết = Tổng hai số của Mai và Rô-bốt viết – số Mai viết

Lời giải chi tiết: Ta có: Trung bình cộng của hai số là 15. Vậy tổng của hai số là: 15 x 2 = 30 Ta thấy: Mai viết số 18 Vậy số Rô-bốt đã viết là: 30 – 18 = 12 Ví dụ 2: Có thể minh hoạ cho kiểu dạy học phân hoá nội tại trong dạy học Toán ở Tiểu học như sau: Thiết kế hoạt động dạy phù hợp với nhiều loại đối tượng học sinh trong lớp cùng một nội dung dạy học (VD: Toán 5, Bài 6: Luyện Tập, tr) I. Mục tiêu Giúp HS:

  • Biết đọc, viết các phân số thập phân trên một đoạn của tia số. Biết chuyển một phân số thành một phân số thập phân.
  • Làm đúng bài tập 1, 2, 3.

II. Các hoạt động dạy học Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1ểm tra bài cũ

  • Muốn chuyển một phân số thành phân số thập phân ta làm như thế nào?
  • Cho HS làm 1 hoặc 2 ví dụ 2ạy học bài mới a. Giới thiệu b. Hướng dẫn luyện tập Bài 1

-Vẽ tia số lên bảng, gọi 1 HS lên bảng làm bài, yêu cầu các HS khác vẽ tia số vào vở và điền vào các phân số thập phân. -Yêu cầu HS yếu đọc các phân số thập phân trên tia số