Dạy học theo mô hình phân hóa ở tiểu học năm 2024
T11-N5-K6 Thứ Tư ngày 13 tháng 9 năm 2023 CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC BÀI 1: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC Phần 5: Phương pháp dạy học phân hoá trong môn Toán ở Tiểu học I. MỤC TIÊU A. Sau bài học, người học:
Trong mối quan hệ biện chứng đó, nếu quan tâm đầy đủ, kịp thời đến trình độ riêng của từng học sinh thì đây sẽ là cơ sở thuận lợi để phát huy năng lực, thế mạnh riêng của từng học sinh. Đồng thời, nếu quan tâm kịp thời đến trình độ chung của cả lớp thì đây là cơ sở thúc đẩy trình độ học tập chung của cả lớp nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục đã đề ra. 2. Cơ sở tâm lí học Cơ sở tâm lí của phương pháp dạy học phân hoá là dựa theo thuyết đa trí tuệ: Mỗi con người có nhiều khả năng phát triển ở những lĩnh vực khác nhau. Có thể minh hoạ cơ sở tâm lí học của phương pháp dạy học phân hoá qua ví dụ sau: Bài toán: (Sách Toán 3, tập 2; Chủ đề 9; Bài 53; Câu 4, trang 36). Với những trạng thái tâm lí được diễn ra dưới dạng các câu hỏi của các học sinh rất khác nhau như vậy, người giáo viên cần biết được tâm trạng và mong muốn của từng học sinh để thiết kế được quả trình dạy học hỗ trợ phù hợp cho mỗi học sinh tự tìm được lời giải của bài toán.
Cơ sở giáo dục học của dạy học phân hoá thể hiện ở nguyên tắc dạy học phải đảm bảo tính vừa sức, phát huy tối đa tính tích cực của mỗi cá nhân học sinh. Minh hoạ cơ sở giáo dục học của dạy học phân hoá thông qua ví dụ dưới đây: Bài toán: (Sách Toán 4, tập 1; Chủ đề 5; Bài 25; Câu 2, trang 87). Đây là bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Tuy nhiên, không phải tất cả học sinh đều nhận dạng được ngay bài toán. Để tạo được một môi trường học tập tích cực, phù hợp với nhiều loại trình độ học tập của học sinh trong lớp, người giáo viên cần xử lí tình huống sư phạm có hiệu quả ngay từ thao tác dạy học đầu tiên. Có thể thu hút sự chú ý và kích thích hứng thú học sinh trong lớp tham gia giải bài toán trên đây bằng cách đưa ra các yêu cầu khác nhau trong tóm tắt bài toán:
-Mục tiêu: HS vận dụng, củng cố cách giải bài toán “Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai số đó” -GV có thể gợi ý HS lựa chọn giữa hai phép tính là tìm số bé hoặc tìm số lớn trong khi làm bài. Phương pháp giải:
Tóm tắt: Bài giải: Hai lần số học sinh đợt 2 là: 175 – 15 = 160 (bạn) Số học sinh đợt 2 là: 160 : 2 = 80 (bạn) Số học sinh đợt 1 là: 175 – 80 = 95 (bạn) Đáp số: Đợt 1: 95 bạn; Đợt 2: 80 bạn. Như vậy, người giáo viên đã tạo ra những tình huống có mức độ yêu cầu khác nhau trong bước đầu tiên giải bài toán giúp cho mỗi học sinh trong lớp đều có cơ hội tiếp cận tham gia giải bài toán. Với kĩ thuật hướng dẫn này, người giáo viên vừa đảm bảo tính vừa sức vừa đạt được sự công bằng trong cơ hội tiếp cận giáo dục. III. BẢN CHẤT CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA (1) Lấy trình độ chung của học sinh trong lớp làm nền tảng Trong dạy học toán, giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung của học sinh trong lớp làm nền tảng, phải hướng vào những yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức kĩ năng để điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp. Giáo viên phải biết lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với trình độ và điều kiện chung của lớp. Có thể phải lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với yêu cầu cơ bản đặt ra hoặc cũng có thể phải bổ sung những nội dung cần thiết để phát triển tư duy cho học sinh. Ví dụ: Giáo viên lựa chọn ra bài tập phù hợp với trình độ và điều kiện chung của cả lớp để phù hợp với khả năng của tất cả các em. Ngoài việc giảng (2) Đưa học sinh yếu lên trình độ trung bình Trong dạy học phân hoá, nếu lớp có học sinh diện yếu, kém thì giáo viên cần sử dụng các biện pháp để đưa những học sinh đó có đủ khả năng đạt được những yêu cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng. Đối với những học sinh này, cần phải hạ thấp yêu cầu so với học sinh diện đại trà, giáo viên cần kèm riêng từng cá nhân để các em có thể theo kịp trình độ chung của học sinh cả lớp. Ví dụ: Khi yêu cầu học sinh yếu kém trong lớp giải các bài toán có văn, nếu có học sinh yếu về cách đặt lời giải thì giáo viên cần gợi ý trực tiếp với riêng cá nhân học sinh đó về cách đặt lời giải hoặc có thể thiết kế riêng phiếu bài tập có in sẵn câu lời giải, yêu cầu học sinh chỉ điền phép tính dưới lời giải. Điều này sẽ giúp học sinh yếu, kém ấy bù đắp được chỗ hổng về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. (3) Cần bổ sung bài tập cho học sinh khá, giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những yêu cầu cơ bản. Giáo viên là cần phải bổ sung những kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi bằng những dạng bài tập mang tính phát triển tư duy. Đối với những học sinh này, ngoài việc đạt được yêu cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng còn phải vận dụng các kiến thức đã học vào việc giải toán nâng cao. Các dạng bài tập bổ sung cần đảm bảo yêu cầu sát với chuẩn kiến thức kĩ năng và phải vừa sức với học sinh. Nếu học sinh giỏi chỉ làm những bài cơ bản mãi thì kiến thức của các em ấy chỉ xoay vòng ở đấy. Vì thế, giáo viên cần sáng tạo bổ sung nhiều dạng bài tập mang tính tư duy, để học sinh có thể phát triển thêm kiến thức; gợi tính tò mò, tìm tòi, sáng tạo của các em. Đồng thời, định hướng xem các em giỏi nhất ở lĩnh vực nào, từ đó đào tạo phát triển các em hơn. III. NÊU QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HOÁ TRONG MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC. Tiến hành dạy học phân hoá theo các bước sau đây: *Bước 1: Giáo viên tìm hiểu và đánh giá trình độ học tập chung của cả lớp cũng như của các loại đối tượng học sinh khác nhau ở trong lớp. Đặc biệt, giáo viên cần thấu hiểu được những đặc điểm tâm lí nguyện vọng và những băn khoăn, rào cản của đa số học sinh trong lớp
rõ những học sinh “đặc biệt”. Với mỗi học sinh “đặc biệt”, giáo viên phải có cách thức phù hợp để các em không bị cô lập với nhóm, các em càng phải được giáo viên, nhóm trưởng và các bạn trong nhóm “quan tâm” nhiều hơn. Ngoài ra, giáo viên tạo cơ hội cho các nhóm trưởng cùng chia sẻ kinh nghiệm điều hành nhóm. Để mỗi nhóm, mỗi thành viên của nhóm phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình.
huống thực tế liên quan đến cách tính chu vị hình chữ nhật, ... Sau cùng là đánh giá ở thời điểm cuối bài, nhằm đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi học xong bài đó. Tùy theo mỗi bài học, giáo viên có thể sử dụng hệ thống câu hỏi hay số lượng bài tập để học sinh củng cố, luyện tập. Từ đó, giáo viên có thể đánh giá sâu hơn mức độ nhận thức bài học của mỗi đối tượng học sinh.
IV. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
Khác với việc học truyền thống, thay vì quá thụ động trong việc tiếp thu kiến thức thì dạy học phân hoá sẽ giúp các em huy động mọi khả năng của từng HS để tự HS tìm tòi, khám phá ra những nội dung mới của bài học. Từ đó, tập trung mọi cố gắng để phát triển năng lực, sở trường của mỗi HS, tạo cho HS có niềm tin và niềm vui trong học tập. Tạo ra môi trường học tập tích cực. Vấn đề đặt ra là đối với lớp khá giỏi dạy như thế nào, lớp trung bình dạy cách nào và với lớp yếu kém thì phương pháp ra sao? Đối tượng HS yếu kém cần được quan tâm giúp đỡ nhiều hơn đối tượng HS khá giỏi, những câu hỏi vấn đáp đưa ra cần có sự gợi mở, chẻ nhỏ. Nhưng không có nghĩa là đối tượng HS khá giỏi không được quan tâm mà việc quan tâm đến đối tượng HS khá giỏi chỉ hạn chế tạo điều kiện cho nhóm này phát huy tối đa tính tự giác, độc lập, sáng tạo của các em.
Dạy học phân hoá tạo ra môi trường học tập tích cực, tăng cường thúc đẩy sự giao lưu, gắn bó giữa thầy và trò. Cho trẻ em lựa chọn có nghĩa là chúng phải chịu trách nhiệm nhiều hơn cho việc học của bản thân. Học sinh chủ động hơn trong việc học vì trong dạy học phân hóa, các em là những cá nhân có cơ hội phát triển như nhau.
Để dạy học phân hoá có hiệu quả - thực sự là một thách thức của cả thầy và trò.
Sĩ số lớp học hiện nay quá đông (mỗi lớp thường trên 35 HS), nên việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học. Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GVTH hiện nay chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH. GVTH phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.
HS tiểu học chưa ý thức về việc học vẫn còn gia đình quản thúc học tập nên khi áp dụng PPDHPH thì các phải tự tạo cho mình động lực và quyết tâm học tập Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lý đối với HS khi bị xếp vào nhóm yếu kém cũng như tâm lý lo lắng của phụ huynh HS.
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu phương tiện kỹ thuật, đồ dùng dạy học,... nên trong quá trình dạy học không đạt được hiệu quả hư mong muốn
Ví dụ: Khi hình thành quy tắc Phép trừ hai phân số có cùng mẫu số (Toán 4, tập 2, trang 80)
Giáo viên gọi học sinh khá, giỏi đưa ra ý tưởng để thực hiện phép trừ, bên cạnh đó cũng cần gọi học sinh trung bình và yếu kém nhắc lại cách thực hiện phép cộng hai phân số cùng mẫu số.Việc làm đó sẽ giúp học sinh cả lớp hoà chung vào công việc đó là tìm ra cách thực hiện phép trừ hai phân số cùng mẫu số.
khá, giỏi cũng thích thú thảo luận về so sánh điểm giống và khác nhau giữa hình bình hành và hình thoi,... Từ đó sản phẩm học tập được hoàn thành với sự tham gia tích cực của các đối tượng học sinh Trong dạy học hợp tác nhóm, nếu giáo viên chia nhóm một cách phù hợp thì chính các học sinh trong nhóm có thể giúp nhau hoàn thành được nhiệm vụ học tập, đây là một vấn đề rất quan trọng nâng cao được hiệu quả dạy học. Vì vậy, có thể nói dạy học hợp nhằm và dạy học phân hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp được sử dụng nhiều ở Tiểu học. Trong phương pháp này, giáo viên phải giúp học sinh thông qua những hình ảnh trực quan để xây dựng và hình thành trí thức mới. Thông thường, từ những tranh vẽ, những đồ vật thật hay những đoạn phim ảnh, giáo viên yêu cầu học sinh nêu nội dung, tên gọi của tranh vẽ, đồ vật hay đoạn phim, tiếp đó yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa của bức tranh hay đoạn phim hoặc đặc điểm, tính chất của đồ vật,... để hưởng vào nội dung bài học. Vì vậy, nếu giáo viên biết phân hoá đối tượng học sinh để đưa ra nội dung câu hỏi phù hợp thì sẽ giúp học sinh phối hợp cùng nhau xây dựng được bài một cách tốt nhất. Ví dụ: Khi dạy về Bài: Hỗn số (Toán 5; Trang 12), giáo viên cho học sinh quan sát trực quan (hình vẽ 2 cái bánh và ¾ cái bánh). Khi yêu cầu học sinh nêu “nhận xét về số bánh không bị chia ra và số phần bánh bị chia ra” thì nên gọi học sinh yếu hoặc trung bình; còn khi yêu cầu học sinh rút ra kết luận về hỗn số thì nên yêu cầu học sinh khá giỏi. Hoặc khi tổ chức cho học sinh khám phá, ghi nhớ đặc điểm hình vuông ở lớp 3, giáo viên có thể yêu cầu học sinh yếu “quan sát và nêu tên gọi của hình”, còn học sinh trung bình hoặc khá, giỏi sẽ khái quát nêu hai đặc điểm của hình vuông;... C. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH Ví dụ 1: Có thể minh họa kiểu dạy học phân hóa tổ chức trong dạy học Toán ở Tiểu học như sau: Khi dạy học về dạng bài toán Tìm số trung bình cộng, giáo viên có thể chia học sinh trong lớp thành các nhóm có bốn trình độ học tập tương ứng với bốn bài toán như sau:
Đáp án: Mục tiêu: Bài tập này giúp HS củng cố về tìm số trung bình cộng của nhiều số Phương pháp giải bài toán này dựa vào định nghĩa sách giáo khoa: Muốn tìm số trung bình cộng của nhiều số, ta tính tổng của các số đó, rồi chia tổng đó cho số các số hạng. Bài toán này rất căn bản, học sinh chỉ cần nắm khái niệm tìm số trung bình cộng rồi áp dụng khái niệm, tính toán tìm ra số ghi ở nhụy hoa. Lời giải chi tiết: Số ghi ở nhụy hoa thứ nhất là: (28 + 24 + 26) : 3 = 26 Số ghi ở nhụy hoa thứ hai là: (13+ 15 + 17 + 19 + 21) : 5 = 17 Bước 1: Tìm số cái bánh giầy Rô-bốt làm được trong ngày thứ hai Bước 2: Trung bình mỗi ngày = Tổng số cái bánh giầy làm trong 2 ngày : 2 Tóm tắt: Ngày thứ nhất :20 cái bánh giầy Ngày thứ hai hơn ngày thứ nhất: 4 cái bánh giầy Trung bình mỗi ngày : ... cái bánh giầy? Bài giải: Số cái bánh giầy Rô-bốt làm được trong ngày thứ hai là: 20 + 4 = 24 (cái) Trung bình mỗi ngày Rô-bốt làm được số cái bánh giầy là: (20 + 24) : 2 = 22 (cái) Đáp số: 22 cái bánh giầy.
Mục tiêu: Bài tập này nhằm giúp học sinh củng cố về tìm số trung bình cộng của hai số. Phương pháp giải:
Lời giải chi tiết: Ta có: Trung bình cộng của hai số là 15. Vậy tổng của hai số là: 15 x 2 = 30 Ta thấy: Mai viết số 18 Vậy số Rô-bốt đã viết là: 30 – 18 = 12 Ví dụ 2: Có thể minh hoạ cho kiểu dạy học phân hoá nội tại trong dạy học Toán ở Tiểu học như sau: Thiết kế hoạt động dạy phù hợp với nhiều loại đối tượng học sinh trong lớp cùng một nội dung dạy học (VD: Toán 5, Bài 6: Luyện Tập, tr) I. Mục tiêu Giúp HS:
II. Các hoạt động dạy học Hoạt động của GV Hoạt động của HS 1ểm tra bài cũ
-Vẽ tia số lên bảng, gọi 1 HS lên bảng làm bài, yêu cầu các HS khác vẽ tia số vào vở và điền vào các phân số thập phân. -Yêu cầu HS yếu đọc các phân số thập phân trên tia số |