Nguyên nhân bị mờ mắt
Nguồn chủ đề Nhìn mờ có 4 cơ chế chung: Đục môi trường quang học (giác mạc, thủy tinh thể, dịch kính) Bệnh lý võng mạc Bệnh lý thị thần kinh và đường dẫn truyền thị giác Tật khúc xạ Rối loạn hiếm gặp có thể gây nhìn mờ bao gồm các bệnh thần kinh thị giác di truyền (ví dụ như teo thị thần kinh di truyền trội, bệnh thị thần kinh di truyền Leber) và sẹo giác mạc do thiếu vitamin A. Tiền sử bệnh hiện tại
thường có thể xác định rõ sự khởi phát, thời gian kéo dài và sự tiến triển của các triệu chứng, cũng như xác định xem chúng là song phương hay đơn phương. Triệu chứng nên được xác định càng chính xác càng tốt bằng cách đặt một yêu cầu hoặc câu hỏi mở (ví dụ: “Vui lòng làm rõ ý bạn nói nhìn mờ là thế nào”). Ví dụ, mất chi tiết không giống như mất độ tương phản. Ngoài ra, bệnh nhân có thể không nhận ra họ có khuyết thị trường nhưng họ sẽ tả với bác sĩ là bị vấp khi leo cầu thang hoặc khó nhìn chữ
khi đọc. Các triệu chứng liên quan quan trọng bao gồm đỏ mắt, sợ ánh sáng, nhìn thấy ruồi bay, nhìn thấy chớp sáng, và đau khi di động nhãn cầu. Cần phải tìm hiểu ảnh hưởng của bóng tối (ban đêm), ánh sáng (tức là gây mờ, hoa mắt, nhìn thấy quầng mầu, chói sáng), khoảng cách từ vật, và kính chỉnh khúc xạ và liệu thị lực trung tâm hay ngoại vi bị ảnh hưởng nhiều hơn. Đánh giá toàn trạng gồm các câu hỏi về các triệu chứng của các nguyên nhân có thể, chẳng hạn như tăn cảm gíac khát và
đa niệu (tiểu đường). Tiền sử nên chú ý đến chấn thương mắt trước đây hoặc các bệnh mắt khác đã được chẩn đoán và hỏi về các yếu tố nguy cơ đối của bênh mắt (ví dụ như
tăng huyết áp
Tăng huyết áp Tăng huyết áp là tình trạng tăng liên tục của huyết áp tâm thu lúc nghỉ (≥ 130 mmHg) hoặc huyết áp tâm trương lúc nghỉ (≥ 80 mm Hg), hoặc cả... đọc thêm
Cần khám toàn diện nhưng các triệu chứng ngoài mắt có thể đánh giá khi cần thiết. Kiểm tra thị lực là mấu chốt. Nhiều bệnh nhân không cố gắng hết sức. Dành đủ thời gian và động viên bệnh nhân để có kết quả khám chính xác hơn. Thị lực lý tưởng được đo khi bệnh nhân đứng cách bảng Snellen được treo trên tường 6 m (khoảng 20 ft). Nếu không thể thực hiện được, thị lực có thể được đánh giá bằng một bảng cách mắt 36 cm (14 inch). Đo thị lực gần nên được kết hợp với chỉnh kính đọc tại chỗ cho bệnh nhân > 40 tuổi. Mỗi mắt được thử riêng biệt trong khi mắt kia được che bởi một vật đặc (không phải là ngón tay của bệnh nhân, có thể có khe hở trong quá trình thử). Nếu bệnh nhân không thể đọc được dòng trên cùng của bảng Snellen ở 6 m, thị lực sẽ được thử ở 3 m. Nếu không đọc được bảng, bệnh nhân sẽ thử thị lực đếm ngón tay. Nếu không, người khám sẽ kiểm tra xem bệnh nhân có thể nhận ra bóng bàn tay không. Nếu không, kiểm tra khả năng nhận biết sáng tối của bệnh nhân. Bệnh nhân được thử thị lực không kính và có kính. Nếu thị lực cải thiện với kính tức là bệnh nhân có tật khúc xạ. Nếu bệnh nhân không đeo kính thì sử dụng kính lỗ khúc xạ. Nếu không có kính lỗ khúc xạ phiên bản thương mại, có thể tạo ra kính lỗ tại giường bằng cách dùng kim 18G chọc một lỗ trên một tấm bìa che mắt và thay đổi nhẹ đường kính của các lỗ khác nhau. Bệnh nhân chọn lỗ giúp điều chỉnh thị lực tốt nhất. Nếu thị lực sắc nét lên nhờ kính lỗ, thì tật khúc xạ là nguyên nhân gây mờ. Kính lỗ khúc xạ là một cách nhanh, hiệu quả để chẩn đoán tật khúc xạ, nguyên nhân gây mờ phổ biến nhất. Tuy nhiên với khúc xạ qua kính lỗ, thị lực điều chỉnh tốt nhất thường chỉ đạt 20/30 chứ không bao giờ lên tới 20/20. Khám mắt cũng rất quan trọng. Kiểm tra phản xạ trực tiếp và phản xạ liên ứng được thực hiện khi làm khám nghiệm đảo đèn chiếu. Thị trường được đánh giá sơ bộ bằng khám nghiệm che mắt và lưới Amsler. Đục giác mạc được kiểm tra trên sinh hiển vi. Tyndall tiền phòng có thể được phát hiện qua khám sinh hiển vi mặc dù những kết quả thăm khám này không giải thích được triệu chứng mờ mắt ở những bệnh nhân không có đau hoặc đỏ mắt. Khám thủy tinh thể đục trên soi đáy mắt, khám sinh hiển vi hoặc cả hai. Khám đáy mắt bằng máy soi đáy mắt trực tiếp. Có thể khám chi tiết hơn nếu giãn đồng tử bằng một giọt cường giao cảm (ví dụ phenylephrine 2,5%), liệt điều tiết (ví dụ, 1% tropicamide hoặc 1% cyclopentolate), hoặc cả hai; giãn tối đa sau khoảng 20 phút. Có thể quan sát được phần lớn đáy mắt, bao gồm võng mạc, hoàng điểm, hố trung tâm, mạch máu, đĩa thị và bờ đĩa. Để quan sát được toàn bộ võng mạc (tức là để khám bong võng mạc ngoại vi), người khám, thường là bác sĩ mắt, phải sử dụng đèn soi đáy mắt gián tiếp. Đo nhãn áp. Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:
Nếu thị lực cải thiện với kính lỗ hoặc kính gọng thì nhiều khả năng là mờ do tật khúc xạ. Mất tương phản hoặc chói sáng có thể do đục thủy tinh thể. Tuy nhiên, các triệu chứng báo động gợi ý một bệnh lý tại
mắt trầm trọng hơn (xem bảng Giải thích Một số dấu hiệu cờ
đỏ Giải thích về một số triệu chứng báo động Nếu thị lực cải thiện với kính, bệnh nhân sẽ được chuyển tới chuyên viên khúc xạ hoặc bác sĩ mắt để kiểm tra khúc xạ. Nếu thị lực không cái thiện với kinh nhưng không có dấu hiệu báo động thì bệnh nhân được chuyển tới bác sĩ mắt để khám thường quy. Với một dấu hiệu báo động, bệnh nhân được chuyển khẩn cấp tới bác sĩ mắt. Bệnh nhân có triệu chứng của bệnh toàn thân nên được làm các khám nghiệm sau: Điều trị các bệnh lý căn nguyên. Có thể chỉnh kính để cải thiện thị lực kể cả khi nguyên nhân gây mờ mắt không đơn thuần là tật khúc xạ (ví dụ đục thủy tinh thể bắt đầu). Dù giảm thị lực trong ánh sáng tối hoặc mất độ nhạy cảm tương phản là một hiện tượng thường gặp ở tuổi già, thị lực vẫn có thể điều chỉnh tới mức 20/20 kể cả ở những bệnh nhân cao tuổi.
Bản quyền © 2022 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. |