Sự khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo

Mối quan hệ , Pháp luật , Tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.73 KB, 24 trang )

Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
Lời mở đầu
Thế giới ngày càng phát triển, con người ngày một tiến bộ và xã hội cũng đang
dần đổi mới. Nhìn lại chặn đường đã qua, chúng ta không thể không nhắc đến cả một hệ
thống các quy phạm đa dạng và phong phú mà nếu không có nó thì không biết xã hội
này như thế nào. Trong hệ thống quy phạm ấy, nổi bật là hai loại quy phạm đã góp phần
điều chỉnh phần lớn các hành vi của con người: Quy phạm pháp luật và quy phạm tôn
giáo.
Ở Việt Nam, trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực
hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương
(
*
)
để thống trị. Tôi đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương, Giáo đoàn kết". Quan điểm đó của
Người đã được thừa hưởng và kế thừa xuyên suốt qua Hiến Pháp của Việt Nam. Ngoài
ra ở rất nhiều quốc gia một tôn giáo được coi là quốc giáo như: Cộng hòa Italia (Công
giáo chiếm 98% dân số), Vương quốc Arập-Xêút (Hồi giáo chiếm 100%) hay Vương
quốc Thái Lan (Phật giáo chiếm 95%). Từ đó có thể thấy được sự quan trọng của tôn
giáo đối với Nhà nước và Pháp luật.
Hoạt động tôn giáo ngày càng sôi động và đã trở thành một nhu cầu tinh thần
không thể thiếu của phần lớn con người. Nhiều tôn giáo đã được mở rộng ra toàn cầu và
ngày càng phổ biến như: Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành… Việc phát triển mạnh
mẽ của tôn giáo đã củng cố niềm tin của giáo dân, góp một phần vào sự phát triển ổn
định của xã hội. Song song những tác động tích cực đó, tôn giáo cũng có nhiều mặt hạn
chế và tác động tiêu cực vì vậy vẫn còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận và tìm hiểu. Trong
phạm vi kiến thức của mình chúng tôi xin trình bày một số vấn đề cơ bản về mối quan
hệ phức tạp này trong tiểu luận “Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo”.
Trang 1
(


*
)
Xem một số định nghĩa ở trang 3.
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỂU LUẬN
1. Mục đích của tiểu luận:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật, tôn giáo.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật vào tôn giáo.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo trong tình hình
Việt Nam hiện nay.
2. Đóng góp của đề tài:
- Làm sáng tỏ mối quan hệ, tác động giữa Pháp luật và Tôn giáo.
- Đề xuất các quan điểm, kiến nghị nhằm hoàn chỉnh Pháp luật về Tôn giáo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận này nghiên cứu chủ yếu mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt
Nam. Ngoài ra còn có tham khảo tài liệu về quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo
của một số quốc gia khác.
4. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung bài tiểu
luận gồm 3 chương, 16 mục.
5. Một số khái niệm mở đầu:
- Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã hội một cách hư ảo,
được một bộ phận quần chúng tin theo, tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ;
nó còn là một thực thể xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo lý, giáo
luật, có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng tôn giáo, có cơ sở vật
chất nhất định.
- Hoạt động tôn giáo: Hoạt động tôn giáo là những hoạt động cụ thể của tổ chức tôn
giáo và cá nhân tín đồ, chức sắc, nhà tu hành nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu
tôn giáo của cộng đồng và từng cá nhân.
- Tín điều tôn giáo: Thường bao gồm những lí thuyết vê các đấng thiêng liêng, về thế

giới, về con người và các quy tắc, quy định về trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của
những người theo tôn giáo đó, những nghi lễ, cách ứng xử cần thiết mà mỗi tín đồ
cần thực hiện trong đời sống đạo của mình.
Trang 2
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
- Đồng bào Lương: Người Công Giáo hay gọi những người không phải Kitô Giáo
là Lương Dân.
- Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi người
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội.
- Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để
thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung và được
Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Trang 3
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
CHƯƠNG 2:
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TÔN GIÁO
2.1. So sánh pháp luật và tôn giáo
2.1.1. Những điểm giống nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
Tôn giáo và pháp luật đều sinh ra với tác dụng là những công cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội, chúng đều là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi con người, vì một
xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
2.1.2. Những điểm khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo:
- Con đường hình thành của tôn giáo và pháp luật là khác nhau:
o Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua những trình tự thủ tục chặt
chẽ. Mỗi Nhà nước thường có những quy định về trình tự, thủ tục ban
hành pháp luật khác nhau và đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt của các tổ
chức, cá nhân tham gia. Pháp luật do Nhà nước ban hành dưới những hình
thức chuyên biệt nhất định như tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy
phạm pháp luật. Trong các Nhà nước đương đại, pháp luật tồn tại chủ yếu

dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Luật…Về
mặt cấu trúc, các quy phạm pháp luật còn được tập hợp thành các hệ thống
lớn nhỏ khác nhau như chế định pháp luật, ngành luật, hệ thống luật pháp
quốc gia.
o Sống giữa thiên nhiên diệu kì và khắc nghiệt, con người luôn mong muốn
hiểu biết về thiên nhiên, tìm cách khai thác thiên nhiên một cách hiệu quả
nhất. Song, không phải khi nào con người cũng hiểu biết được hết về thiên
nhiên nên đôi khi có một số lĩnh vực họ thần thánh hóa, linh thiêng hóa
thiên nhiên.Tuy vậy, không chịu khuất phục trước thiên nhiên con người
tìm cách lý giải, hóa giải những cái “thiêng” bằng tín ngưỡng, tôn giáo là
thờ cúng, hiến tế và cầu xin, thậm chí là chinh phục, sai khiến những cái
thiên đó. Dựa vào tôn giáo, con người tìm cách khống chế những cái
“thiêng” của tự nhiên, cậy nhờ những đấng linh thiêng để làm lợi cho cuộc
sống của con người, đồng thời cũng tự an ủi mình đối với những đau khổ,
Trang 4
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
khó khăn, sự bất lực của bản thân trước tự nhiên và xã hội. Tôn giáo vì
vậy mà được hình thành từ rất sớm và phát triển tới tận ngày nay và vẫn sẽ
tiếp tục phát triển một thời gian dài trong xã hội loài người. Tôn giáo
thường được thể hiện qua các cuốn kinh ví dụ như Kinh Coran (Hồi
Giáo); Kinh cầu siêu, Kinh Kim cang (Đạo Phật)…
- Pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp Nhà nước rất chặt chẽ,
chính xác và nghiêm minh, trong đó có các biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc như tù
có thời hạn, tù chung thân thậm chí tử hình. Trong khi đó, tín điều tôn giáo chỉ được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính xã hội như bị các tín đồ khác trong
giáo lên án, tẩy chay hoặc nặng nhất là khai trừ khỏi giáo hội. Sự trừng phạt trong pháp
luật luôn có giới hạn, các biện pháp và mức độ trừng phạt luôn được quy định chính xác
trong pháp luật. Sự trừng phạt sẽ chấm dứt ngay sau khi chủ thể bị trừng phạt chấp hành
xong hình phạt. Biện pháp trừng phạt trong tôn giáo thường ít khi được quy định trước
mà tùy thuộc vào chủ thể áp dụng. Mặc dù các biện pháp trừng phạt trong tôn giáo ít

nghiêm khắc hơn so với pháp luật; song, đôi khi lại có thể kéo dài vô tận. Ví dụ như sự
lo lắng về luật nhân quả trong đạo Phật, người gây ra tội lỗi thường lo sợ đến một ngày
nào đó họ sẽ phải trả giá cho những gì mình đã gây ra, vì thế họ luôn sống trong sự dằn
vặt, lo sợ. Đây có thể coi như là một biện pháp trừng phạt vô hạn.
- Các quy định của pháp luật thường chặt chẽ, chính xác và thống nhất hơn so với
tín điều tôn giáo. Các quy định của pháp luật luôn phải được nhận thức và thực hiện, áp
dụng chính xác, thống nhất trong phạm vi hiệu lực của nó. Sự chính xác đến từng chi
tiết, từng mô hình hành vi là đòi hỏi cần thiết của pháp luật trong xã hội văn minh. Các
quy định của tôn giáo trong nhiều trường hợp lại rất chung chung và không thống nhất
nên đôi khi sự đánh giá và phạm vi áp dụng có sự thay đổi tùy thuộc vào từng tình
huống cụ thể.
- Trong một đất nước chỉ tồn tại một hệ thống pháp luật duy nhất do Nhà nước ban
hành nhưng có thể tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau.
Trang 5
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
- Mục đích của pháp luật mang tính hiện thực, còn tôn giáo là ngoài mục đích hiện
thực, thường có lý tưởng cao xa hơn nhiều. Ví dụ: nghĩ về chốn thiên đàng, chuẩn bị cho
kiếp sau…
- Cách thức và cơ chế điều chỉnh của pháp luật và tôn giáo cũng có những điểm
khác nhau. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi con người bằng cách quy
định cho chủ thể tham gia các quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Nói
cách khác là quy định những hành vi được phép, những hành vi bắt buộc và những hành
vi bị cấm đoán. Tôn giáo điều chỉnh hình vi của tín đồ của mình bằng cách quy định
nghĩa vụ, bổn phận của họ, xác định cho họ những hành vi nên làm, không nên làm, cần
phải làm, không được làm. Mặt khác, trong pháp luật, sự cho phép, bắt buộc hay cấm
đoán luôn được xác định rất rõ ràng. Để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với chủ
thể, Nhà nước quy định các biện pháp cưỡng chế sẽ được áp dụng trong bộ phận chế tài
của quy phạm pháp luật. Ngược lại, hầu hết những nghĩa vụ, bổn phận của tín đồ thường
không mang tính xác định một cách chặt chẽ. Đó chỉ mới là những lời răn của tín điều
tôn giáo đối với tín đồ: nên, không nên hay cần phải, không được…

2.2. Tác động qua lại giữa pháp luật và tôn giáo
Từ lâu, pháp luật và tôn giáo đã có mối quan hệ gắn bó, chúng tác động qua lại
lẫn nhau: Tích cực và tiêu cực. Phần sau đây sẽ làm rõ những tác động cụ thể đó.
2.2.1 Tác động tích cực
2.2.1.1. Pháp luật tác động tích cực đến tôn giáo
- Thứ nhất: Pháp luật hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn. Khi một tôn giáo
có các tư tưởng, quan niệm, giáo điều không phù hợp với xã hội hiện tại, gây cản trở,
kìm hãm sự phát triển, tác động xấu đến xã hội thì pháp luật sẽ, bằng các biện pháp của
mình, điều chỉnh hay loại bỏ.
- Thứ hai: Pháp luật tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Với những đặc điểm
riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương chính sách của Nhà
nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên quy mô lớn. Ví dụ như: Điều 70
Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung 2001 đã quy định: “Công dân có quyền
tự đo tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật
Trang 6
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự đo tín ngưỡng, tôn giáo…”. Đã góp phần tạo điều
kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, pháp luật
còn trừng trị những kẻ xâm hại đến lợi ích và bảo vệ quyền lợi của tôn giáo.
2.2.1.2. Tôn giáo tác động tích cực đến pháp luật
- Thứ nhất: Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật. Khi xã hội phát triển đến một giai
đoạn nhất định thì rất nhiều tín điều tôn giáo được “pháp luật hóa”, chúng trở thành
những quy phạm pháp luật được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Ví dụ như:
o Trong đạo thiên chúa có quy định về việc kết hôn “một vợ, một chồng”,
quy định này phù hợp với xã hội và được nâng lên thành luật trong Luật
Hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
- Thứ hai: Tôn giáo giúp pháp luật phát triển và hoàn thiện. Trong quá trình phát
triển của tôn giáo, sẽ có lúc pháp luật dự báo trước được những nguy cơ tiềm tàn mà tôn
giáo đem đến hay phát hiện ra những kẽ hở, thiếu sót trong trong pháp luật hiện hành.

Sau đó, pháp luật sẽ tự điều chỉnh mình sao cho phù hợp với hoàn cảnh, giảm thiểu
những ảnh hưởng xấu và từ đó hoàn thiện mình hơn.
- Thứ ba: Tôn giáo san sẻ một phần gánh nặng cho pháp luật.
o Hầu hết các tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răn con
người trong thế giới trần gian này phải biết làm điều thiện, giúp đỡ người
khó khăn, tránh xa cái ác. Khi các giáo dân thực hiện theo các giáo lý đó
thì đã phần nào đã giúp xã hội ổn định và phát triển.
o Trong một số tôn giáo, cái chết chỉ là sự thay đổi về hình thái và địa điểm
sinh sống, điều này giúp con người giải thoát khỏi nỗi sợ lớn nhất – cái
chết, giúp họ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, ít lo sợ và sống vui vẻ hơn.
Và xã hội sẽ bình yên hơn nếu mọi người đều sống mà không lo sợ về cái
chết (điều này thì pháp luật không làm được).
o Ngoài ra, do một số các tín điều tôn giáo đã được nâng thành luật nên chỉ
cần giáo dân nghe theo các tín điều tôn giáo đó thì cũng giống như họ
đang chấp hành pháp luật.
Từ các điều trên có thể thấy nhờ có tôn giáo mà công việc quản lý, kiểm soát xã
hội của pháp luật đã nhẹ đi phần nào.
Trang 7
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
2.2.2. Tác động tiêu cực:
 Về cơ bản pháp luật không đối lập, không ngăn cấm, không loại trừ tín điều tôn
giáo, không tác động xấu đến tôn giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đôi khi tôn
giáo có các tín điều, giáo lý hay hoạt động không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe,
danh dự, tính mạng của cá nhân hoặc trái với đạo đức, văn hóa, không phù hợp với tiến
bộ xã hội. Lúc đó pháp luật sẽ sẽ ngăn cấm, kìm hãm hoặc loại bỏ nó. Vì thế trong phần
này, chúng tôi sẽ không đề cập cập về vấn đề pháp luật tác động tiêu cực đến tôn giáo.
 Như đã trình bày ở trên, tôn giáo vẫn có những giáo lý gây ra không ít phiền toái,
tác hại cho mỗi người và xã hội. Chưa kể là một số người đã cố tình lợi dụng tôn giáo để
làm những điều xấu với mục đích vụ lợi vật chất hay chính trị, gây ra tổn hại về tiền của,
tâm lý, ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường hay nghiêm trọng hơn là sức khỏe và tính

mạng của con người. Phần sau đây sẽ chủ yếu trình bày những tác động tiêu cực của các
hoạt động tôn giáo trong phạm vi Việt Nam là chủ yếu.
- Thứ nhất: Vi phạm trong cách thức thành lập: Ở Việt Nam, những năm gần đây,
hoạt động tôn giáo diễn ra không chỉ diễn ra sôi nổi trong phạm vi toàn quốc mà còn mở
rộng quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở nước ngoài. Một số tôn giáo mới thâm nhập vào
Việt Nam; nhiều tổ chức và hội đoàn tôn giáo trong nước phục hồi, phát triển mà không
xin phép chính quyền. Các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam khi chưa được Nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân và cho phép hoạt động thì sẽ phải tan rã, không được duy
trì. Dù biết rằng hoạt động mà không xin phép như vậy là trái pháp luật nhưng một số cá
nhân, tổ chức vẫn cứ làm.
- Thứ hai: Một số lễ nghi tôn giáo vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Như đã biết,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, là nguồn giải tỏa những bức
xúc, ham muốn mà con người không hoặc chưa thể thực hiện được. Tôn giáo dựng lên
một đấng siêu nhiên có thể làm mọi thứ để mọi người có thể cầu xin giúp đỡ hay phù hộ.
Đương nhiên, cùng với những thỉnh cầu thì sẽ cần cúng tế hay hiến tế. Trong lịch sử, đã
ghi lại nhiều cuộc hiến tế của thổ dân Aztec. Và hiện nay một số ít các tôn giáo ở các
quốc gia nghèo khó, lạc hậu vẫn còn duy trì hành động “giết người” này chỉ để “cầu
mưa” hay “cầu mùa vụ”. Gần đây nhất là vụ hiến tế người hàng loạt ở Uganda, đối
Trang 8
Tiểu luận: Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo
tượng bị hiến tế chủ yếu là trẻ em. Họ hiến tế đơn giản vì họ tin rằng khi dâng cúng máu
và các bộ phận con người cho thần linh thì họ sẽ được “phù hộ” để nhanh chóng trở nên
giàu có. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, tác động đến quyền cơ bản của con người mà
không ai có thể xâm phạm: Quyền được sống.
- Thứ ba: Vi phạm trong lĩnh vực in ấn, xuất bản sách kinh tôn giáo. Ở nhiều quốc
gia trong đó có Việt Nam, số kinh sách, tài liệu, văn hóa phẩm tôn giáo dù được nhập
vào trong nước rất nhiều, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ nhưng việc in
ấn xuất bản, nhập khẩu không xin phép vẫn tiếp tục diễn ra. Các ấn phẩm đó không có
xuất xứ, không có giấy phép rõ ràng (chủ yếu do photocopy), từ đó vi phạm các luật và
công ước về bản quyền.

- Thứ tư: Vi phạm trong xây, sửa nơi thờ tự. Hiện nay, ở một số địa phương của
Việt Nam việc sửa chữa, xây dựng mới nơi thờ tự (như: chùa, nhà thờ, tháp tôn giáo,…)
mà không xin phép hay làm không đúng nội dung xin phép vẫn diễn ra rất nhiều. Mặc dù
Điều 12 Nghị định số 26 của Chính phủ đã quy định: “Việc sửa chữa lớn làm thay đổi
cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bi hoang
phế, bị hủy hoại do chiến tranh, do thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự; việc xây
dựng công trình thờ tự (nhà tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích thờ
tụ) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Một số giáo hội cố tình vi
phạm, khi chính quyền phát hiện, giáo hội thường xin phạt hành chính để các công trình
xây dựng sai vẫn tồn tại, làm cho mọi chuyện như đã rồi. Nếu chính quyền không chấp
nhận thì họ dùng quần chúng tín đồ để gây sức ép, buộc chính quyền phải đồng ý. Điều
này không những vi phạm pháp luật về xây dựng mà còn tác động xấu đến hành vi của
giáo dân, vì họ sẽ nhìn từ hành vi của giáo hội mà thực hiện theo.
- Thứ năm: Hoạt động tôn giáo bị lợi dụng để chống phá Nhà nước. Ngày nay, khi
mà các hoạt động tôn giáo cũng đang toàn cầu hóa thì việc các thế lực thù địch sử dụng
tôn giáo như một công cụ hữu hiệu để chống phá một quốc gia là hết sức phổ biến. Tôn
giáo là một lĩnh vực khá nhạy cảm, có thể tạo ngòi nổ gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Đơn cử như Việt Nam chúng ta. Các thế lực thù địch bên cạnh hoạt động xuyên tạc chủ
trương, chính sách tôn giáo của Nhà nước, còn tăng cường vu cáo Việt Nam đàn áp tôn
Trang 9

Nội dung Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 23 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Mối quan hệ giữa Pháp luật và Tôn giáo

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Một số vấn đề về mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo ở Việt nam hiện nay

Tư liệu - Thăng Long Library
2021-12-30T01:28:25+07:00 2021-12-30T01:28:25+07:00 https://frs.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/tac-gia-tac-pham/mot-so-van-de-ve-moi-quan-he-giua-phap-luat-va-ton-giao-o-viet-nam-hien-nay-92.html https://cdn.giaibainhanh.com/su-khac-nhau-giua-phap-luat-va-ton-giao--a263b5527f277792190dc83ed27ae417.wepb
Bộ môn Tôn giáo học https://frs.ussh.vnu.edu.vn/uploads/drs/logo_tgh2.png
Thứ tư - 29/12/2021 15:31

Sự khác nhau giữa pháp luật và tôn giáo

TS. Nguyễn Thị Tố Uyên, giảng viên luật trường Đại học Phương Đông. Bài đã in trên Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam số 1(86), tr 53 - 60.
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng có mối quan hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng đến sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ đó. Pháp luật cũng vậy. Muốn đánh giá tổng thể hệ thống về pháp luật thì phải đặt nó trong mối tương quan với các quy phạm xã hội khác như: đạo đức, phong tục, tập quán, các giáo lý tôn giáo hay thể chế của các tổ chức xã hội. Trong phạm vi bài viết tôi xin nêu một số ý kiến về mối quan hệ giữa pháp luật với tôn giáo trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội ở nước ta hiện nay.
  1. Vị trí vai trò của pháp luật và tôn giáo trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
Mọi xã hội muốn tồn tại và phát trển phải dựa trên cơ sở của trật tự, ổn định . Sự trật tự và ổn định chỉ có thể có được nhờ sự điều chỉnh của một hệ thống các quy phạm xã hội phong phú. Hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta bao gồm: quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán hương ước của cộng đồng dân cư, những thể chế của các tổ chức xã hội và tổ chức tôn giáo. Trong hệ thống các quy phạm xã hội đó thì pháp luật chịu sự ảnh hưởng nhất định từ tôn giáo.
Theo Ph.Ăngghen thì tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày. Tôn giáo là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Ở đây không phải tinh thần, ý thức quyết định đời sống hiện thực mà ngược lại. Ý thức trong đó có ý thức tôn giáo, chỉ là ý thức của cá nhân, cộng đồng người trong xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định. Tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con người xã hội, tức là phương thức tồn tại của con người. Tôn giáo là sự phản ánh xã hội vào trong ý thức của con người. Song sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lý, hoang đường, bóp méo hiện thực, để rồi sau đó lấy cái phi lý, hoang đường làm chuẩn mực để giải thích hoặc chi phối hiện thực của con người. Không phải con người cá nhân riêng lẻ mà là con người xã hội đã sản sinh ra tôn giáo, do đó tôn giáo là một hiện tượng xã hội. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh cái tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Còn pháp luật là những quy tắc ứng xử chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Pháp luật có những thuộc tính cơ bản như: Tính bắt buộc chung, tính được xác định cht chẽ về mặt hình thức, tính được đảm bảo thực hiện cưỡng chế bằng nhà nước. Pháp luật khác với thể chế tôn giáo ở chính những thuộc tính này. Do vậy nếu một cá nhân nào vi phạm pháp luật thì phải chịu chế tài của pháp luật như phạt tù, phạt tiền. Tuy nhiên giữa pháp luật và thể chế tôn giáo gặp nhau ở một điểm chung: chúng đều là phương tiện, đều là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người với mục đích đảm bảo trật tự xã hội.
Một xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì càng xuất hiện nhiều quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Pháp luật là một yếu tố điều chỉnh hữu hiệu, không thể thiếu được trong một nhà nước. Tuy nhiên chúng ta không nên tuyệt đối hóa vai trò cùa pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà phải biết đánh giá đúng vai trò pháp luật và biết kết hợp sử dụng pháp luật với các quy phạm xã hội khác để điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách hiệu quả nhất. Chính vì vậy, việc xác định và đánh giá đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật với các tín điều tôn giáo có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thức tiễn. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật không thể bỏ qua yếu tố truyền thống đó. Điều này có tầm đặc biệt quan trọng đối với nước ta – một quốc gia đa tôn giáo.
Ngay từ xa xưa, khi chưa có pháp luật, phương tiện điều chỉnh hữu hiệu nhất các quan hệ xã hội nhằm ổn định trật tự xã hội chính là phong tục, tập quán và các tín điều tôn giáo. Ngay cả khi pháp luật ra đời thì các phong tục, tập quán và các tín điều tôn giáo vẫn tồn tại và trở thành nguồn bổ sung cho pháp luật. Ở nước ta do điều kiện lịch sử mà nhân dân ta phải sống trong một nền pháp luật hà khắc, xa lạ vì nó không phục vụ lợi ích của người dân mà chủ yếu phục vụ lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị. Điều này thể hiện rõ nét trong nhất trong các bộ luật của thời kỳ phong kiến Việt Nam, ngay cả khi điều chỉnh quan hệ dân sự vẫn kèm theo chế tài hình sự. Chính vì sống dưới ách đô hộ và nền pháp luật hà khắc như vậy mà người dân Việt nam đã đặt niềm tin vào đấng thiêng liêng, niềm tin này mang lại cho người dân một nghị lực và sức sống để họ vượt qua qua mọi áp lực, trong bối cảnh cuộc sống xã hội bị bế tắc, không lối thoát của ngày ấy. Thực tiễn trong các cuộc đấu tranh chống áp bức và cường quyền người Việt Nam thường sử dụng hình thức tín ngưỡng tôn giáo để bảo tồn sự sống và nền độc lập của dân tộc. Chính vì vậy những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính và thần thánh hóa để cầu khẩn che chở, phù hộ cho bản thân và cộng đồng. Sự tôn sùng, thần thánh này đã trở thành thói quen và ăn sâu vào tiềm thức của người dân, tác động đến việc điều chỉnh hành vi của người dân. Đây chính là đạo lý “ ăn quả nhớ kẻ trồng cây” “ uống nước nhớ nguồn” của người Việt. Đạo lý này đã trở thành cơ sở và nguyên tắc của hệ thống pháp luật Việt nam hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay khi đất nước đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, Đảng và nhà nước ta có quan điểm (văn kiện Đại hội IX): “ Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Thc hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo... Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm của công dân với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy giá trị tt đẹp về văn hóa, đạo đức tôn giáo. Từng bước hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia r dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia”. Pháp luật của nhà nước ta trong thời gian qua đã cố gắng thể chế hóa quan điểm, đường lối này của Đảng vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực, cụ thể Điều 25 Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013; pháp lnh tín ngưỡng tôn giáo ban hành ngày 15/11/2004; Nghị định 22 của chính phủ hướng dẫn thi hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo ngày 1/03/2005; điều 5 Bộ luật Dân sự; điều 2, điều 6 luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Nghị định 92 của chính Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 8/11/2012. Những quy định trên đã thể hiện bước tiến quan trọng trong việc đổi mới chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về hoạt động tôn giáo, thể hiện sự tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.
Trong đời sống thực tế, có những quan hệ xã hội mà pháp luật khó điều chỉnh, như quan hệ tình cảm trong gia đình, trong cộng đồng. Để điều chỉnh quan hệ xã hội này thì việc sử dụng các phong tục, tập quán và các tín điều tôn giáo lại tỏ ra ưu thế hơn pháp luật vì các cư dân vn có thói quen sống theo phong tục tập quán, tín điều tôn giáo. Pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể điều chỉnh hết các quan hệ xã hội đa dạng. Do vậy để bổ sung cho sự trống vắng đó của pháp luật, chúng ta không thể không sử dụng những phong tục tập quán và các tín điều tôn giáo tốt đẹp.
Không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước trong hệ thống ASEAN, phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo cùng với pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. VD: ở Inđônnêsia, song song với pháp luật của nhà nước còn có các quy phạm xã hội (trong đó chủ yếu là các tín điều tôn giáo) cùng tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội. Người ta chia chúng làm 3 hệ thống:
  • Pháp luật bản địa và các quy phạm xã hội bắt nguồn từ đời sống hàng ngày của một số cộng đồng (chủ yếu hình thành từ phong tục tập quán)
  • Pháo luật Hồi giáo (chủ yếu hình thành từ kính Coran) điều chỉnh các vấn đề tôn giáo và gia đình của người dân theo đạo Hồi.
  • Pháp luật phương Tây (cụ thể là pháp luật của Hà Lan) được du nhập vào.
Pháp luật chỉ có hiệu lực thật sự khi người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Yếu tố phong tục tập quán cùng với tín điều tôn giáo chính là điều kiện khách quan giúp cho pháp luật gần với đời sống của người dân. Vì vậy khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thì không thể bỏ qua các yếu tố tôn giáo.
  1. Mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo.
Pháp luật và tôn giáo có mối quan hệ qua lại và tác động lại và ảnh hưởng lẫn nhau, cùng với các loại quy phạm xã hội khác như phong tục quán, đạo đức ..., chúng góp phần tạo nên sự ổn định và trật tự của xã hội.
Từ trước đến nay tôn giáo luôn tồn tại khách quan. Bản thân pháp luật không tạo ra tôn giáo. Tôn giáo thay đổi hay mất đi do nhiều yếu tố khách quan tác động, trong đó có pháp luật. Pháp luật, với sức mạnh vốn có mà các quy phạm xã hội khác không có được đã tác động mạnh mẽ đến tôn giáo. Với nội dung tiến bộ pháp luật sẽ ảnh hưởng tích cực tới tôn giáo, cụ thể :
+ Pháp luật hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn. Khi mt tôn giáo có các tư tưởng, quan niệm giáo điều không phù hợp với xã hội hiện tại, gây cản trở, kìm hãm sự phát triển, tác động xấu đến xã hội thì pháp luật sẽ bằng biện pháp của mình điều chỉnh hay loại bchúng.
+ Pháp luật tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Với những đặc điểm riêng của mình pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước về tôn giáo một cách nhanh chóng, đồng bộ hiệu quả trên quy mô lớn.
Tôn giáo với ưu thế nhất định trong đời sống hàng ngày lại ảnh hưởng đến pháp luật theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, có thể nói ảnh hưởng của tôn giáo đến pháp luật như là một hiện trượng có tính quy luật, cụ thể :
- Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật, thể hiện ở chỗ, khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định thì nhiều tín điều tôn giáo được “pháp luật hóa”, chúng trở thành những quy phạm pháp luật được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện, VD: trong đạo thiên chúa giáo có quy định về kết hôn “một vợ, một chồng”, quy định này phù hợp với xã hội và được nâng lên thành luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hay trong đạo phật có điều răn phải kính trọng ông bà, cha mẹ … các điều răn này phù hợp với sự phát triển của xã hội nên cũng được nhiều nhà nước trên thế giới pháp điển hóa
- Tôn giáo còn giúp cho pháp luật phát triển và hoàn thiện, thể hiện ở chỗ: Hầu hết các tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răn con người làm việc thiện, góp phần xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình, có lý các mâu thuẫn trong cộng đồng, điều này hỗ trợ cho việc hoàn thiện pháp luật. Bởi vì xuất phát từ tình hình thực tế, pháp luật có thể dự báo trước được nguy cơ mà tôn giáo đem đến hay phát hiện ra những bất cập thiếu sót trong hệ thống pháp luật hiện hành từ đó pháp luật sẽ được nhà nước điều chỉnh để hoàn thiện hơn. Ngoài ra tôn giáo với những tín điều, giáo lý hầu hết là khuyên con người hướng thiện và khi các tín đồ tôn giáo thực hiện theo những tín điều này thì phần nào giúp cho xã hội ổn định, phát triển. Bên cạnh đó có một số tín điều tôn giáo đã được nâng lên thành luật nên chỉ cần các tín đồ nghe theo các tín điều tôn giáo đó thì cũng như là họ đã thực hiện pháp luật. Như vậy có thể thấy nhờ tôn giáo mà công việc mà công việc quản lý, kiểm soát xã hội của pháp luật nhẹ đi phần nào.
Bên cạnh những tác động tích cực thì tôn giáo còn có tác động tiêu cực đến pháp luật, thể hiện ở chỗ: trong quá trình phát triển của mình đôi khi các tín điều, giáo lý, hoạt động của các tôn giáo không phù hợp với đạo đức xã hội, xâm hại đến sức khỏe, danh dự, tính mạng của con người. Trong một số trường hợp còn gây mất đoàn kết dân tộc, dẫn đến xung đột tôn giáo. Ở Việt Nam trong thời gian qua một số hoạt động tôn giáo đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội, cụ thể như: vi phạm trong cách thức thành lập theo quy định của pháp luật, một số nghi lễ tôn giáo mang mầu sắc mê tín dị đoan…Ngoài ra một số cá nhân, tổ chức còn lợi dụng niềm tin tôn giáo để trục lợi riêng, gây mất đoàn kết trong nhân dân. VD: vụ vi phạm pháp luật của giáo xứ Mỹ Yên, Nghệ An năm 2013…
  1. Thực trạng mối quan hệ giữa tôn giáo và pháp luật ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo và quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng tôn giáo riêng của mình. Người kinh có hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành Hoàng là thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc… Còn đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tôn tín ngưỡng nguyên thủy ( còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn góc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, có nguồn gốc từ phương Tây như Công giáo, Tin lành, có những giáo nội sinh như Cao Đài, phạt giáo Hòa Hảo, có tôn giáo hoàn chinh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai, có tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định. Có tôn giáo chưa ổn định đang trong quá trình tìm kiếm hướng dẫn tới cho phù hợp. Theo thống kê, ở nước ta hiện nay có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận cấp đăng ký hoạt động. Các tôn giáo ở nước ta mặc dù độc lập về nghi lễ nhưng gắn bó với nhau trong khối đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, còn có nhiều tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ đặc sắc, phong phú, được đông đảo người dân sùng kính, như tín ngưỡng thờ mẫu, thờ Vua Hùng, thờ Đức Thánh Trần…
Xuất phát từ tình hình thực tế tôn giáo ở Việt Nam nên quản lý nhà nước về tôn giáo cũng như những quy định pháp luật về tôn giáo đã hình thành rất sớm ngay từ triều đại phong kiến và tác động tích cực đến tôn giáo. Điều này thể hiện trong Bộ Quốc Triều hình Luật (Luật Hồng Đức) thời Hậu Lê có 722 điều, trong đó 4 điều quy định về tội liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ Công hòa ra đời, Đảng và nhà nước đã quan tâm đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển. Quyền tự do tôn giáo của Việt Nam được Hiến pháp và pháp luật quy định như: điều 24 Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013; điều 129, khoản 1 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi 2009); pháp lnh tín ngưỡng tôn giáo ban hành ngày 15/11/2004; Nghị định 22 của chính phủ hướng dẫn thi hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo ngày 1/03/2005; điều 5 Bộ luật Dân sự; điều 2, điều 6 luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Nghị định 92 của chính Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 8/11/2012. Các quy định pháp luật trên đều nhằm thể hiện chủ trương, chính sách của Đảng về tôn giáo, đó là “mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo quy định của pháp luật. Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và phát luật; không lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép người dân theo đạo cũng như bỏ đạo.”; điều 24 Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013 cũng quy định “ Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Không ai được xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, hoặc lợi dung tín ngưỡng tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Quy định này góp phần tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì pháp luật của nhà nước ta còn có những quy định trừng trị những kẻ xâm hại đến lợi ích của tôn giáo, VD: tại điều 129, khoản 1 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi 2009) có quy định; “Người nào có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với ích của nhà nước và của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo tôn giáo nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm”.
Đồng thời pháp luật nước ta còn loại bỏ, hạn chế các tư tưởng lạc hậu trong tôn giáo, như điều 247 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi năm 2009) có quy định :
“ 1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả nghiên trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2.Phạm tội làm chết ngưòi hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.
Như vậy có thể thấy pháp luật chính là công cụ pháp lý quan trọng trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Với những quy định của mình, pháp luật đã tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển và hướng tôn giáo theo con đường đúng đắn phù hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Ngược lại tôn giáo nước ta với những tìn điều mang tính chất hướng thiện, tiến bộ đã tác động tích cực đến pháp luật, giúp pháp luật quản lý xã hội trật tự ổn định, điều này thể hiện ở chỗ: hiện nay tôn giáo và tín ngưỡng ở nước ta về cơ bản là ổn định, các tôn giáo đều có xu hướng tuân thủ pháp luật, ban lãnh đạo các cấp của các tổ chức tôn giáo hầu hết đều đang hướng tôn giáo theo hoạt động “ đồng hành cùng dân tộc”, nhiều quy định tiến bộ của tôn giáo được pháp luật kế thừa và nâng lên thành luật, VD: như quy định kết hôn “một vợ một chồng” trong thiên chúa giáo, đã được nhà nước ta kế thừa và trở thành nguyên tắc trong Luật hôn nhân gia đình 2000. Hay trong đạo phật có điều răn phải kính trọng ông bà, cha mẹ … các điều răn này phù hợp với sự phát triển của xã hội nên cũng được nhà nước ta pháp điển hóa tại điều 2 khoản 4 luật hôn nhân và gia đình 2000 “ Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau” .
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực của tôn giáo thì trong thời gian qua tôn giáo cũng có những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, hệ quả của nó là gây mất đoàn kết, mâu thuẫn ở tại một số địa phương, cụ thể :
Tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở rộng cơ sở thờ tự, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện trái pháp luật diễn ra ở nhiều địa phương. Việc dựng tượng thánh, tượng chúa, tương phật… trên đất công vẫn còn diễn ra ở một số nơi. Các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, cũng như các hoat động in ấn, xuất bản, lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép vẫn diễn ra; hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật vẫn tiếp tục diễn ra ở một số vùng đồng bào thiểu số, vùng biên giới…
Ngoài ra do vấn đề lợi ích cá nhân hoặc không thống nhất được đường hướng hoạt động của một số hệ giáo phái nên dẫn đến mâu thuẫn nội bộ trong tổ chức tôn giáo, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Bên cạnh đó trong thời gian qua, ở các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, hoạt động tôn giáo trong vùng đồng bào thiểu số có những tác động xấu đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tại đây các đối tượng phản động đã lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng thực hiện các hoạt động gây rối, bạo loạn đòi ly khai, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, như xưng vua lập và nhà nước Mông ở Tây Bắc, lập nhà nước Đê-ga ở Tây Nguyên, đòi tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam…Đồng thời với sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài và nhóm “Đảng Việt tân”, một số nhóm, cá nhân ở trong nước và nước ngoài tiến hành tuyên truyền, kích động nhân dân gây rối, chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước ta về tín ngưỡng tôn giáo. Một số tổ chức phản động núp dưới danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, như “ Cây thập giá Chúa Giê-su Cờ-rit”, Hội đồng Công luật công án Bia Sơn”… với những hoạt động mê tín dị đoan, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa của người dân.
Như vậy có thể thấy tôn giáo ở nước ta có ảnh hưởng nhất định đến đời sống xã hội, chính vì vậy khi hoàn thiện chính sách, pháp luật của nhà nước thì cần phải tính đến yếu tố tác động của tôn giáo đối với đời sống xã hội.
  1. Một số giải pháp cần thiết khi hoàn thiện pháp luật về tôn giáo hiện nay
Chính vì pháp luật và tôn giáo có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau như đã trình bầy ở trên mà trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, thì nhà nước ta cần phải nghiên cứu xây dựng pháp luật theo những hướng sau:
+ Pháp luật về tôn giáo phải quán triệt và cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng về tôn giáo. Xuất phát từ quan điểm : “ tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng. Chống mọi hoạt động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, nhân dân”. Trên cơ sở đó nhà nước sẽ ban hành những văn bản pháp luật để bảo vệ và tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.
+ Pháp luật phải thừa nhận, khai thác, phát huy những tín điều, giáo lý tốt đẹp của tôn giáo. Phát huy đạo đức tôn trong cộng đồng giáo dân, nhất là trong tình hình hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường đạo đức xã hội đang xuống cấp thì việc phát huy tác dụng của đạo đức tôn giáo sẽ giúp pháp luật giảm bớt gánh nặng, góp phần ổn định trật tự xã hội.
+ Trong quá trình hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo quyền bình đảng giữa các tôn giáo. Xuất phát từ tình hình thực tế Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo nội sinh (đạo Cao đài, đọa Hòa hảo), có tôn giáo ngoại nhập ( như Công giáo, Tôn giáo, đạo Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo) cùng tồn tại và phát triển, nên việc đảm bảo quyền bình đẳng giữa các tôn giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc đoàn kết đồng bào theo đạo trong khối đại đàn kết toàn dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nếu pháp luật nước ta không đảm bảo bình đẳng giữa các tôn giáo thì chúng ta không thể tập hợp được quần chúng các tín đồ tôn giáo và sẽ tạo ra các kẽ hở để cho các thế lực thù định thực hiện âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá nhà nước CHXHCN Việt nam.
+ Pháp luật về tôn giáo vừa phải đảm bảo quyền tự do tin ngưỡng tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân; vừa phải là phương tiện đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, bài trừ mê tín, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, pháp luật về hoạt động tôn giáo phải được xây dựng trên tinh thần thực sự tôn trọng đức tin tôn giáo của các tín đồ. Đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng, cần phải được nhà nước tôn trọng và bảo vệ, chống mọi tư tưởng đánh đồng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với hoạt động mê tín, dị đoan, với hoạt động lợi dụng nhằm gây khó khăn cho các hoạt động tôn giáo chính đáng, hợp pháp. Pháp luật phải giúp tôn giáo phát huy những mặt tích cực thể hiện trong giáo lý, giáo lễ của tôn giáo. Đồng thời pháp luật phải tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo tham gia cùng với nhà nước và xã hội giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh như: chống các tệ nạn xã hội, cứu trợ thiên tai, xóa đói giảm nghèo… Bên cạnh đó trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo phải nghiêm cấm các hoạt động lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc.
+ Pháp luật về tôn giáo phải đảm không can thiệp vào nội bộ của tôn giáo, đồng thời đảm bảo mọi hoạt động của tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.
Như vậy để nhà nước tôn trọng và không can thiệp vào nội bộ của mình thì các tôn giáo phải hoạt động tuân thủ pháp luật và đúng với giáo lý, giáo luật. không được núp bóng tôn giáo để làm những việc phi tôn giáo, vi phạm pháp luật. Ngược lại pháp luật không được quy định điều chỉnh những vấn đề thần túy thuộc nội bộ tôn giáo. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật với quy định của giáo luật, thì vì lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc và vì lợi ích quốc gia thì nhà nước yêu cầu và đòi hỏi các tôn giáo phải tuân thủ, chấp hành theo quy định pháp luật.
Có thể nói pháp luật và tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển và hoàn thiện. Ở một phương diện nào đó, chúng đều là những công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, có một số chức năng tương tự như nhau để duy trì, quản lý đời sống xã hội phục vụ mục đích chung của cộng đồng xã hội. Chính vì vậy việc ghi nhận và bảo vệ các tín điều tôn giáo tốt đẹp là một tất yếu khách quan trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước hiện nay.


Tài liệu tham khảo:
1. Ban tôn giáo chính phủ (2013), báo cáo tình hình tôn giáo ở nước ta năm 2013; dự báo tình hình năm 2014.
1. Ban tôn giáo chính phủ (1998), Các văn bản pháp luật về tôn giáo. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban tôn giáo Chính phủ (2003), Các văn bản pháp luật liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006): Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009): Văn bản pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2000): Đường hướng hoạt động của cá tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Đỗ Quang Hưng (2005): Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam: lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đỗ Quang Hưng ( chủ biên - 2003): Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội. NXB Tôn giáo, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Lữ (2011), Tìm hiểu về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính
9. Hoàng Thị Kim Quế ( chủ biên – 2002), giáo trình lý luận chung Nhà nước và Pháp luật, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
10. Đặng Nghiêm Vạn (2007), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
11. Nguyễn Hữu Vui, Trương Hải Cường (2003), Tôn giáo học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia
12. Nguyễn Thị Tố Uyên (2003), Mối quan hệ giữ pháp luật và phong tục tập quán ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học 9 (148), tr34-37

Tác giả bài viết: Tư liệu - Thăng Long Library

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền