Vị sao giáo viên cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học

Năng lực NCKH phải là tiêu chuẩn quan trọng với giảng viên sư phạm

Ngày cập nhật : 02/01/2018

Năng lực NCKH phải là tiêu chuẩn quan trọng

Ở Việt Nam, theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT ban hành quy định chế độ làm việc đối với giảng viên, ngoài 900 giờ giảng dạy theo quy định, thì tổng thời gian quy định cho chức danh giảng viên là 500 giờ NCKH, 360 giờ cho hoạt động chuyên môn và các nhiệm vụ khác; Phó Giáo sư, giảng viên chính có 600 giờ NCKH và 260 giờ hoạt động chuyên môn và các nhiệm vụ khác; giáo sư, giảng viên cao cấp có 700 giờ NCKH, số giờ hoạt động chuyên môn và các nhiệm vụ khác là 160... Tuy nhiên, thực tế cho thấy, số giờ giảng viên phải giảng dạy cao hơn rất nhiều nên họ không có đủ thời gian đầu tư nghiên cứu.

Nói về giải pháp đầu tiên cho vấn đề này, PGS.TS Trương Thị Bích cho rằng: Năng lực NCKH phải trở thành tiêu chuẩn quan trọng đối với giảng viên ĐHSP.

Tổng quan Chuẩn nghề nghiệp giảng viên, cũng như những nghiên cứu của các nước cho thấy năng lực NCKH là không thể thiếu trong các bộ Chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Đó cũng là những đòi hỏi cấp thiết đối với mỗi giảng viên ĐH nói chung và giảng viên ĐHSP nói riêng.

Giảng viên ĐHSP không chỉ dừng lại ở việc soạn các bài giảng, họ là những người tổ chức, tham gia vào các hội thảo, tác giả của các bài báo, công trình NCKH.

Để nâng cấp ĐH, trước hết phải nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên ĐH và những yêu cầu về năng lực nghiên cứu cần được cụ thể hóa bằng những quy định mang tính bắt buộc trong Chuẩn nghề nghiệp giảng viên.

Giải pháp thứ 2 được PGS.TS Trương Thị Bích đưa ra liên quan đến quy định về nhiệm vụ giảng dạy (số lượng tiết dạy) và nhiệm vụ nghiên cứu đối với các giảng viên, cán bộ nghiên cứu. Điều này sẽ tạo điều kiện để sử dụng, bố trí cán bộ giảng dạy phải NCKH và cán bộ NCKH phải tham gia công tác giảng dạy sao cho hợp lý. Nhà trường cần có cơ chế giám sát, điều phối để mỗi người có thể thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được giao.

Ở Việt Nam, tỉ lệ giữa giảng dạy - NCKH và các nhiệm vụ khác của các giảng viên phổ biến là 51:28:21 (đối với giảng viên); 51:34:15 (đối với PGS) và 51:39:10 (đối với GS). Ở nhiều nước trên thế giới, số giờ quy định cho giảng dạy và NCKH thường có tỉ lệ ngang nhau.

Như vậy, hiện nay tỉ lệ giữa giảng dạy và nghiên cứu đối với giảng viên ở nước ta chưa cân đối, giảng dạy vẫn là chủ yếu, trong khi nhiều trường ĐH ở các nước yêu cầu các giảng viên dành thời lượng cho giảng dạy và NCKH là như nhau. Có như thế giảng viên mới có thời gian đầu tư cho NCKH, cập nhật các thông tin, nội dung mới vào bài giảng của mình.

Vị sao giáo viên cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học

Tạo cơ hội cho cán bộ trẻ

Một số biện pháp cơ bản được PGS.TS Trương Thị Bích chia sẻ nhằm nâng cao năng lực NCKH cho giảng viên trẻ như sau:

Thứ nhất: Có chính sách và quy định bắt buộc đối với GS, PGS, TS, giảng viên chính, giảng viên cao cấp trong trường ĐH tham gia hướng dẫn, bồi dưỡng cho các giảng viên trẻ NCKH. Việc bồi dưỡng, phát triển giảng viên trẻ cần phải nằm trong chiến lược phát triển chung của nhà trường, coi việc đó là bắt buộc, vấn đề sống còn, là giá trị, thương hiệu của nhà trường.

Thứ 2: Phát triển phong trào thi đua NCKH của giảng viên kết hợp với dạy tốt - học tốt. Giảng viên trẻ cần đặt ra yêu cầu phải tham gia vào các đề tài nghiên cứu, viết sáng kiến kinh nghiệm, bài báo khoa học… Trường ĐH và các đoàn thể thường xuyên duy trì và phát động các phong trào thi đua có hiệu quả, trân trọng, tôn vinh con người và sản phẩm của tư duy sáng tạo.

Hoạt động thi đua NCKH cần được đẩy mạnh, gắn với lợi ích cá nhân nhằm tận dụng, phát huy tiềm năng nghiên cứu đối với cán bộ giảng dạy bằng nhiều hình thức: thành lập quỹ khen thưởng NCKH, tài năng trẻ, tổ chức buổi tọa đàm, giới thiệu, quảng bá sản phẩm nghiên cứu có chất lượng, nhân rộng những giảng viên trẻ đạt thành tích cao trong NCKH và giảng dạy…

Thứ 3: Tạo điều kiện để giảng viên trẻ tham gia NCKH trong và ngoài trường. Cần tổ chức đấu thầu các đề tài khoa học một cách khách quan, minh bạch, công khai dựa trên chất lượng của các thuyết minh đề tài chứ không dựa vào học hàm, học vị hay vị trí công tác. Bên cạnh đó, các nhà trường cũng nên có những qui định đối với các đề tài để thu hút giảng viên trẻ có cùng chuyên ngành tham gia nghiên cứu.

Để sự kết hợp hai chiều giữa đào tạo và NCKH trở thành một nét văn hóa trong đào tạo, nghiên cứu của từng trường và thói quen ở mỗi giảng viên ĐHSP, PGS.TS Trương Thị Bích cho rằng, nhà trường cần đẩy mạnh sự kết hợp giữa các khoa, các trung tâm, viện nghiên cứu trong và ngoài trường nói chung, kết hợp giữa giảng viên và cán bộ nghiên cứu trong các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau như:

Tạo cơ hội để cán bộ nghiên cứu ứng dụng các kết quả nghiên cứu của mình vào giảng dạy; các trung tâm và viện nghiên cứu phối hợp với các khoa, mời giảng viên tham gia nghiên cứu các đề tài, dự án có liên quan; tổ chức các lớp chuyên đề nâng cao năng lực NCKH cho giảng viên; tạo điều kiện cho giảng viên có những đề tài nghiên cứu liên quan đến bộ môn, chuyên đề giảng dạy... tiến tới xóa bỏ ranh giới giữa nghiên cứu và giảng dạy, giữa cán bộ nghiên cứu và cán bộ giảng dạy. Mỗi giảng viên hay cán bộ nghiên cứu trong trường ĐH phải thực hiện chức năng kép: giảng dạy và nghiên cứu.

Để làm được, các trung tâm, viện nghiên cứu cần phải tham gia đào tạo, hỗ trợ chuyên viên nghiên cứu về khoa học sư phạm cho nhà trường. Chương trình, các đề tài nghiên cứu của họ phải được sự quan tâm của lãnh đạo, quản lí nhà trường, bằng thực tiễn của quá trình đào tạo và thực tiễn giáo dục phổ thông đặt ra.

Các đề tài, dự án, kết quả nghiên cứu của họ phải được công bố công khai qua xây dựng các cơ sở dữ liệu, qua mạng, qua các hội thảo và ấn phẩm khoa học; các kết quả nghiên cứu đó phải là kho dữ liệu quan trọng giúp nhà quản lí, nhà làm chính sách, BGH nhà trường, giảng viên có thông tin cần thiết, làm cơ sở cho các quyết định, quyết sách, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy…

Cần có những quy định thống nhất về cách triển khai, đánh giá các đề tài NCKH về thành phần tham gia, các sinh hoạt mở rộng cho sinh viên, những người quan tâm được tham dự và chế độ khuyến khích, khen thưởng cho các đề tài có kết hợp với đào tạo. Đổi mới quản lý hoạt động NCKH. Tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động NCKH có tính đến những đóng góp cụ thể vào việc đổi mới, cải tiến nhà trường, cũng như vào quá trình đào tạo sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh.

Theo Hải Bình (GD&ĐT)

***ĐH SAO ĐỎ - CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN - HỢP TÁC SÂU RỘNG - PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG*** ****ĐH SAO ĐỎ - CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN - HỢP TÁC SÂU RỘNG - PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG***

          Đối với giảng viên tại trường đại học, công tác giảng dạy luôn được coi trọng, là điều kiện cần và đủ đối với một giảng viên. Tuy nhiên, đây mới chỉ là một nửa yêu cầu của hoạt động chuyên môn của người giảng viên.Vì vậy, việc NCKH lâu nay luôn được các trường đề cao, chú trọng, đặt ra như một nhiệm vụ bắt buộc, thường xuyên và là một tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để đánh giá khả năng toàn diện của giảng viên. Trong giai đoạn hội nhập và phát triển như hiện nay, việc tham gia vào những hoạt động NCKH sẽ đem lại những lợi ích:
          Thứ nhất: Giúp giảng viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức chuyên môn mà mình đang trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung những nội dung kiến thức chưa chuẩn xác trong bài giảng của mình.
         Thứ hai:  Người giảng viên tham gia NCKH một mặt vừa củng cố lại kiến thức chuyên môn của mình, mặt khác vừa có điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn từ những kiến thức từ các chuyên ngành khác.
         Thứ ba: Nghiên cứu khoa học còn góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phương pháp nhận thức khoa học của giảng viên, đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên cứu.
          Thứ tư: Tham gia hoạt động NCKH là cơ hội tốt để giảng viên có môi trường, cơ hội bồi dưỡng năng lực NCKH. Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
          Thứ năm: Hoạt động NCKH sẽ góp phần quan trọng để khẳng định uy tín của nhà trường với các trường bạn trong toàn quốc. Mỗi bài viết tham gia hội thảo được đánh giá cao, mỗi công trình NCKH ở các cấp, mỗi bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành với tên cán bộ, giảng viên gắn với tên nhà trường là một lần thương hiệu và uy tín của nhà trường được thể hiện.           Nhận thức được lợi ích của hoạt động  nghiên cứu khoa học đối với giảng viên, trường Đại học Sao Đỏ luôn luôn chú trọng, khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học, nhà trường luôn tạo mọi điều kiện, để giảng viên tiếp cận với nghiên cứu khoa học, xác định đây là nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi giảng viên. Mỗi giảng viên nâng cao ý thức, trách nhiệm và nhiệm vụ của mình đã tự giác, tích cực nghiên cứu đăng ký làm các đề tài khoa học, viết báo đăng tạp chí quốc tế, trong nước, trong trường. Năm học 2019-2020 toàn trường có 42 đề tài khoa học cấp cơ sở; 01 đề tài cấp Tỉnh; 02 đề tài cấp Bộ được nghiệm thu;  có trên 40 công trình khoa học được công bố trên các Tạp chí, hội thảo quốc tế; 14 bài đăng tạp chí chuyên ngành trong nước; 68 bài đăng tạp chí Đại học Sao Đỏ; 04 bài hội thảo trong nước. Theo sự đánh giá của các Hội đồng, năm nay, các đề tài khoa học công nghệ của giảng viên đều tăng cả về số lượng và chất lượng, lĩnh vực nghiên cứu của đề tài phong phú, đa dạng. Nội dung của đề tài có nhiều ứng dụng trong thực tiễn sản xuất tại doanh nghiệp (07 đề tài được chuyển giao công nghệ cho các công ty) trong giảng dạy,  đáp ứng mục tiêu phát triển của nhà trường. Đặc biệt một số đề tài được triển khai từ sự đặt hàng của doanh nghiệp và được doanh nghiệp cấp kinh phí nghiên cứu. 

Vị sao giáo viên cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học

Nhóm đề tài của Nhà trường bảo vệ trước Hội đồng khoa học cấp tỉnh

          Khoa Giáo dục Chính trị và Thể chất với chức năng nhiệm vụ giảng dạy các môn lý luận chính trị, thể chất cho sinh viên. Ngoài công tác giảng dạy, giảng viên trong khoa tích cực tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học. Năm học 2019-2020 khoa có 02 đề tài khoa học cấp cơ sở được nghiệm thu; 08 bài báo đăng trên tạp chí Nhà trường; 07 bài báo đăng các tạp chí chuyên ngành trong nước; 02 Sáng cải tiến; 02 đề xuất sáng tạo khoa học kỹ thuật; tổ chức 02 Hội thảo khoa học. Các công trình khoa học được đánh giá chất lượng tốt, có tính thực tiễn cao. Qua đó, kỹ năng, trình độ nghiên cứu khoa học của giảng viên được nâng cao. Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.

Vị sao giáo viên cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học

KHoa Giáo dục chính trị và thể chất tổ chức Hội thảo khoa học năm học 2019 - 2020       

          Nhìn chung, hoạt động NCKH của đội ngũ giảng viên đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của các nhà trường, góp phần tạo nên uy tín, chất lượng trong đào tạo. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế làm cho hoạt động nghiên cứu khoa học phát triển chưa xứng tầm với mục tiêu Nhà trường đề ra, cụ thể: Một số giảng viên vẫn chưa nhận thức được lợi ích của việc nghiên cứu khoa học, nên làm đề tài theo kiểu đối phó, chưa giành nhiều thời gian, trí tuệ trong quá trình nghiên cứu; Tinh thần hợp tác với nhau, giúp đỡ nhau trong hoạt động NCKH. Nhiều giảng viên có trình độ cao chưa tập hợp các giảng viên trẻ khi triển khai các đề tài. Ngược lại, giảng viên trẻ còn e dè, ngại ngùng học hỏi hay tranh thủ sự giúp đỡ của giảng viên lâu năm nhiều kinh nghiệm; Số lượng đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ, Tỉnh khối xã hội còn ít; Sự liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học còn hạn chế. Số lượng đề tài chuyển giao cho các doanh nghiệp còn ít; về kinh phí là vấn đề then chốt nhất và vướng mắc nhất của NCKH.            Để hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên phát triển hơn nữa, cần phải thực hiện một số giải pháp sau:           * Đối với nhà trường:           - Tăng cường vai trò của quản lí khoa học và công nghệ trong phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên qua các kế hoạch cụ thể cho từng giảng viên theo thời gian, coi đó là nhiệm vụ bắt buộc cần phải thực hiện trong năm học.           - Tăng kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học như: Kinh phí cho các cộng tác viên, phản biện đề tài, các nhóm tham gia làm đề tài. Có cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia NCKH thông qua việc khen thưởng về vật chất và tinh thần để khen thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH           - Thành lập câu lạc bộ NCKH mạnh trong nhà trường tạo điều kiện giúp đỡ cho các giảng viên trẻ tham gia cùng làm đề tài với những người có kinh nghiệm.          * Đối với các khoa:           - Đầu năm học lập kế hoạch giao nhiệm vụ cho từng giảng viên tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học: Đăng ký đề tài các cấp, viết báo đăng tạp chí trong trường và ngoài trường, làm sáng cải tiến, sáng tạo khoa học kỹ thuật.           - Các khoa cần lấy chất lượng và hiệu quả NCKH làm tiêu chuẩn trong đáng giá phân loại thi đua của giảng viên để nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH của đội ngũ giảng viên trong khoa. Đưa ra những chế tài xử phạt đối với giảng viên không hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong năm học.           - Phát huy hơn nữa vai trò của hội đồng khoa học trong khoa như: Tư vấn, đóng góp, giúp đỡ các giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học.            Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, với vai trò quan trọng của tri thức khoa học, việc đẩy mạnh NCKH trong giảng viên càng có ý nghĩa thiết thực. Hoạt động NCKH của giảng viên là một hoạt động rất quan trọng trong việc biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, những năm gần đây, Ban Giám hiệu trường Đại học Sao Đỏ đã quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời, sâu sát và đạt được nhiều kết quả. Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Tuy nhiên, có thể thấy công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên trong toàn trường, khoa vẫn còn tồn tại cần khắc phục, vì vậy giảng viên cần phải phát huy nội lực của mình trong công tác NCKH mới chủ động đáp ứng được nhu cầu phát triển năng lực nhằm phục vụ nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

 Từ khóa: hoạt động, đại học, tổ chức, nhiệm vụ, đào tạo, tích cực, nhu cầu, quan trọng, giảng viên, nhà trường, khoa học, nghiên cứu, cơ bản, tham gia, nâng cao, quan hệ, cần thiết, thể hiện, chiến lược, không thể, biện pháp

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Vị sao giáo viên cần phải thực hiện nghiên cứu khoa học

  • Đang truy cập22
  • Hôm nay6,703
  • Tháng hiện tại55,756
  • Tổng lượt truy cập2,646,830