Ca sĩ phi sơn trung tá là ai?
Năm 2017, trung tá Lê Ngọc Sơn là một trong 5 sĩ quan thuộc Cục Gìn giữ hoà bình Việt Nam được cử sang Phái bộ Minusca thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc. Trong đó có 3 vị trí luân phiên và 2 vị trí mới là Sĩ quan tham mưu phân tích thông tin tình báo và Quan sát viên quân sự. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, những sĩ quan Việt Nam luôn được chỉ huy phái bộ và đồng nghiệp các nước đánh giá cao. Có nhiều người đã nói vui rằng sĩ quan Việt Nam “hot” nhất phái bộ. Trung tá Lê Ngọc Sơn trong thời gian công tác tại Cộng hoà Trung Phi. Ảnh: baoquocte.vn Điển hình nhất là khi tới phái bộ, các sĩ quan Việt Nam đã nhanh chóng hoàn thành tốt kỳ thi sát hạch kỹ năng lái xe hai cầu, huấn luyện đầu vào, phỏng vấn tiếng Anh. Nhờ tiếp cận nhanh và làm chủ công việc, tích cực hỗ trợ sĩ quan các nước ở phái bộ, sĩ quan Việt Nam được lựa chọn giữ vai trò Trưởng nhóm Quan sát viên quân sự, Trưởng ban tình báo Phân khu và nhiều vị trí khác khi sĩ quan ở vị trí đó vắng mặt… Năm 2017, trung tá Lê Ngọc Sơn là một trong 5 sĩ quan thuộc Cục Gìn giữ hoà bình Việt Nam được cử sang Phái bộ Minusca thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc. Trong đó có 3 vị trí luân phiên và 2 vị trí mới là Sĩ quan tham mưu phân tích thông tin tình báo và Quan sát viên quân sự. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, những sĩ quan Việt Nam luôn được chỉ huy phái bộ và đồng nghiệp các nước đánh giá cao. Có nhiều người đã nói vui rằng sĩ quan Việt Nam “hot” nhất phái bộ. Điển hình nhất là khi tới phái bộ, các sĩ quan Việt Nam đã nhanh chóng hoàn thành tốt kỳ thi sát hạch kỹ năng lái xe hai cầu, huấn luyện đầu vào, phỏng vấn tiếng Anh. Nhờ tiếp cận nhanh và làm chủ công việc, tích cực hỗ trợ sĩ quan các nước ở phái bộ, sĩ quan Việt Nam được lựa chọn giữ vai trò Trưởng nhóm Quan sát viên quân sự, Trưởng ban tình báo Phân khu và nhiều vị trí khác khi sĩ quan ở vị trí đó vắng mặt… Dấu ấn Việt Nam ở Minusca Kể về những gian nan và sự ham học của trẻ em Trung Phi, trung tá Sơn nhớ tới hình ảnh những em nhỏ nhễ nhại mồ hôi vì phải đi bộ quãng đường dài đầy bất ổn và cái nóng như thiêu đốt để tới lớp học của “thầy giáo Sơn”, có em phải đi bộ mất hai tiếng rưỡi đồng hồ tới lớp. Mặc dù vậy, kể cả trong ngày nghỉ, các em cũng chịu khó đến lớp để được trung tá Sơn truyền đạt kiến thức. Theo trung tá Sơn, những sĩ quan mũ nồi xanh Việt Nam ở phái bộ Minusca có một đặc trưng khác biệt so với sĩ quan các nước là sau khi xong nhiệm vụ thì về tiếp tục hỗ trợ người dân địa phương rất nhiều hoạt động như bổ củi, xách nước, làm vườn, hướng dẫn trồng rau xanh cải thiện đời sống. Thậm chí sĩ quan phái bộ còn khuyến khích họ trồng rau để đặt mua nhằm giúp họ có thêm thu nhập. Để có được những ấn tượng tích cực trên, công tác chuẩn bị cho các sĩ quan đi làm nhiệm vụ tại các phái bộ được Cục Gìn giữ hoà bình Việt Nam thực hiện rất tốt như các khoá học đào tạo ngoại ngữ, nghiệp vụ gìn giữ hoà bình, khoá học tiền triển khai, kỹ năng sinh tồn… Nên ngay từ những ngày đầu tiên tới phái bộ, sĩ quan Việt Nam đã khẳng định được khả năng, năng lực so với sĩ quan các nước. “So về tính chuyên nghiệp và khả năng hoàn thành nhiệm vụ tại phái bộ thì Việt Nam không thua kém nước nào, thậm chí có nhiều điểm nổi trội. Qua đó, chúng ta đã thể hiện được tính ưu việt của người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế”, trung tá Sơn nói.
Trung tá, NSƯT Phương Anh có nhiều năm quen biết và cộng tác với nhạc sĩ Phú Quang (1949 - 2021). Trong thời gian dài, cô chọn hát nhạc Phú Quang thay vì những dòng nhạc khác, tác giả khác. Với Phương Anh, sáng tác của Phú Quang không chỉ phù hợp quãng giọng, chất giọng mà còn tương đồng với những trải nghiệm của mình, khiến cô ví âm nhạc của ông với cuộc đời mình. “Âm nhạc của chú Phú Quang có cái gì đó khắc khoải, có những đoạn trầm buồn, tự sự nhưng rồi lại đến đoạn nó ào ạt lên, như cuộc đời của tôi”, nữ ca sĩ nói trong chương trình truyền hình Lời tự sự. Ca sĩ Phương Anh xuất hiện xinh đẹp, đằm thắm trong chương trình “Lời tự sự”. Thời điểm tham gia Sao Mai - Điểm hẹn 2004 - cuộc thi giúp tên tuổi cô được công chúng biết đến, Phương Anh bộc lộ nhiều lợi thế như chất giọng trầm khàn, phong cách biểu diễn cá tính. Bước ra khỏi cuộc thi, cô nhanh chóng có nhiều sản phẩm âm nhạc được công chúng đón nhận. Tuy nhiên, thay vì lao vào thị trường âm nhạc sôi động, nữ ca sĩ lại chọn gắn bó với Đoàn Nghệ thuật Quân chủng Hải quân. Cô lơ đãng chuyện kết nối với truyền thông nên tên tuổi ngày càng lắng xuống. Năm 2008, Phương Anh kết hôn với ông xã người Pakistan và mãi 5 năm sau mới có cặp sinh đôi một trai một gái. Nữ ca sĩ gặp khó khăn khi tìm người giúp việc nên quyết định tạm ngưng ca hát một thời gian để chăm sóc con nhỏ. Đây là quãng thời gian rất khó khăn đối vì ngoài nỗi vất vả của “bà mẹ bỉm sữa”, cô còn phải đối mặt với chứng trầm cảm sau sinh. “Sau 6 ngày sinh mổ nằm trong viện, tôi và hai bé sinh đôi được đón về nhà. Sáng ngày thứ 8 thì tôi mất sữa vì không ngủ được. Đến ngày thứ 10, con trai tôi bị viêm phổi do khí hậu miền Bắc đang mùa ẩm. Đưa con vào viện nhi, tôi càng suy sụp. Mẹ tôi ở trong ôm cháu, còn tôi nằm ngoài hành lang vì bệnh viện quá đông, không còn phòng trống. Lúc đấy tự dưng nước mắt cứ chảy ra. Tôi nhìn mẹ khóc, mẹ tôi thương con vừa sinh mổ xong đi còn không thẳng được lưng mà phải ở trong viện chăm bé nên cũng khóc. Ông xã nghe tin thì xin về, nhưng chỉ được một ngày vào nhìn con rồi lại phải đi. Ông xã đeo ba lô đi một cái là tôi khóc. Tôi dễ xúc động, cứ nói chuyện với mọi người là lại khóc” – Phương Anh nhớ lại. Trải qua 2 lần trầm cảm, hôn nhân từng đứng trước bờ vực đổ vỡ, hiện tại NSƯT Phương Anh hạnh phúc bên chồng Hồi giáo và hai con sinh đôi. Cuộc sống tưởng chừng khởi sắc khi Phương Anh ổn định chuyện con cái và ra mắt sản phẩm nhạc Phú Quang vào năm 2015. Thế nhưng sóng gió bất ngờ ập đến khiến gia đình nữ ca sĩ gần như đến bờ vực đổ vỡ. “Khi biến cố đến, không ai nói với ai cả. Một người muốn chia sẻ, xoa dịu, còn một người cứ muốn quay lưng vì vận hạn liên tiếp làm cho ông xã tôi sốc quá. Nhìn hai con sinh đôi đang học lớp 1, bệnh trầm cảm quay trở lại với tôi. Tôi ngủ không sâu nhưng cứ nằm li bì không muốn dậy, không muốn gặp ai cả. Ai gặp có khi không nhận ra, tôi gầy sọp xuống và không thiết thứ gì cả, từ chối show vì không còn tâm trí để tiếp tục nữa. Tôi rơi vào bế tắc, cảm giác như sống trong địa ngục. Tôi không dám nói chuyện với bố mẹ vì sợ họ buồn; nghĩ bụng thôi thì đường ai nấy đi chứ cứ thế này thì chịu không được. Nhưng rất may mắn là bạn bè xung quanh đều khuyên tôi phải mạnh mẽ lên, phải đối mặt, rồi nó sẽ qua, vì mọi người nhìn thấy rằng hai vợ chồng tôi còn duyên còn nợ nhiều lắm. Không phải chúng tôi không còn yêu nhau, thương nhau nữa mà chỉ vì những khó khăn ập đến mà mình không thoát ra được và tự đẩy nhau ra thôi. Vượt qua rồi, nhìn lại rồi mới cảm thấy trân quý nhau hơn, cảm thấy gia đình mình càng giá trị hơn” – giọng ca sinh năm 1982 tâm sự. Trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời, Phương Anh của hiện tại là người phụ nữ dịu dàng, đa cảm. Cô trở lại với khán giả, cho ra mắt sản phẩm âm nhạc Hãy cho em yêu anh vào đầu năm 2021. Nghệ sĩ thừa nhận, cô khá áp lực khi tái xuất làng giải trí sau nhiều năm im ắng, nhưng không vì thế mà đặt nặng chuyện nổi tiếng khiến bản thân mệt mỏi. Ở tuổi 40. Phương Anh thừa nhận cô không thể nào xông pha như các bạn trẻ vì bị nhiều thứ xung quanh chi phối, từ con cái đến gia đình. Tuy nhiên với niềm yêu nghề, nữ nghệ sĩ sẽ làm những gì phù hợp trong khả năng của mình. Ca sĩ Phương Anh được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSƯT từ năm 2019. Thu Trần
Các Sư Ðoàn Không Quân Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Lâm Vĩnh Thế Lời Nói Ðầu: Tác giả bài viết này không phải là một người đã từng phục vụ trong Không Lực QLVNCH. Bài viết này được biên soạn xuất phát từ lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với Quân Chủng này, và nó được viết ra nhằm giúp những độc giả ở bên ngoài Quân Chủng có thể hiểu rõ phần nào cách thức tổ chức của các Sư Ðoàn Không Quân của Không Lực VNCH. Trong quá trình biên soạn, tác giả đã tham khảo rất nhiều tác phẩm Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng như các bài viết của các tác giả Không Quân đã đăng trong các Trang Web như Hội Quán Phi Dũng, Cánh Thép, vv. Tác giả xin được đặc biệt cảm tạ những hướng dẫn về tài liệu và góp ý vô cùng quý báu của tác giả Nguyễn Hữu Thiện, một cựu sĩ quan Không Lực VNCH, thành viên Ðặc trách biên soạn trong Ban Thực Hiện của bộ quân sử nói trên. Những sai sót chắc chắn không thể tránh được trong bài viết nầy hoàn toàn thuộc trách nhiệm của người viết. Người viết rất mong được các độc giả đã từng phục vụ trong Không Lực VNCH, đặc biệt là các vị sĩ quan niên trưởng của Quân Chủng, giúp thêm ý kiến để bổ sung những điểm còn thiếu sót hay điều chỉnh những điểm sai trong bài viết. Người viết xin thành thật cảm tạ. Không Quân (viết tắt KQ) của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là một quân chủng đã phát triển vượt bực trong suốt thời gian Chiến Tranh Việt Nam. Từ một bộ phận nhỏ của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam còn lệ thuộc rất nhiều vào lực lượng không quân của Quân Ðội Viễn Chinh Pháp (1951-1955), KQ Việt Nam đã liên tục phát triển nhanh chóng và đến giữa thập niên 1970 đã được xem như là không lực đứng hàng thứ tư trên thế giới về số lượng phi cơ (sau Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng). Lịch sử hình thành và phát triển của KQ VNCH có thể được chia làm 5 thời kỳ như sau: 1
Vào cuối năm 1974, KQ VNCH đã có một quân số là 61.147 người, gồm 65 phi đoàn với tổng số 2071 phi cơ đủ loại, và được tổ chức thành 6 sư đoàn KQ bố trí trên khắp lãnh thổ của VNCH như sau:
Sư Ðoàn 1 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 1 Không Quân Sư Ðoàn 1 KQ được chính thức thành lập vào tháng 9-1970 tại Căn Cứ KQ Ðà Nẵng với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Ðức Khánh, về sau, ngày 1-4-1974, vinh thăng Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Nguyễn Ðức Khánh Không như phần lớn các tướng lãnh KQ VNCH là những sĩ quan bị động viên và tốt nghiệp các trường sĩ quan trừ bị Nam Ðịnh hay Thủ Ðức sau đó mới chuyển sang KQ, Chuẩn Tướng Khánh tình nguyện vào KQ năm 1954, và trúng tuyển kỳ thi du học ngành phi hành tại Trường Võ Bị KQ Pháp Salon-de-Provence, và tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy Hoa Tiêu Khu Trục,2,3 Tướng Khánh, khi còn mang cấp bậc Trung Tá, trong khoảng 1967-1970, cũng đã từng là Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 41 Chiến Thuật tại Ðà Nẵng, là không đoàn chiến thuật nồng cốt của Sư Ðoàn 1 KQ. Sư Ðoàn 1 KQ gồm có tất cả 3 Không Ðoàn Chiến Thuật là các Không Ðoàn 41, 51, và 61. Không Ðoàn 41 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 41 Chiến Thuật Không Ðoàn 41 Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1964 với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Phạm Long Sửu.4,5,6 Sau năm 1972, Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Thái Bá Ðệ và Không Ðoàn Phó là Trung Tá Nguyễn Văn Vượng. Không Ðoàn 41 gồm có tất cả 3 phi đoàn với phiên hiệu như sau: Phi Ðoàn 110, Phi Ðoàn 120, và Phi Ðoàn 427. Trước khi tìm hiểu thêm về các phi đoàn này chúng ta cần biết là từ khoảng đầu thập niên 1960, KQ VNCH bắt đầu sử dụng một hệ thống phiên hiệu, gồm 3 số, để đặt tên cho các phi đoàn, mà con số đầu tiên được quy định như sau: số 1 là các phi đoàn quan sát, số 2 là các phi đoàn trực thăng, số 3 là các phi đoàn đặc nhiệm, số 4 là các phi đoàn vận tải, số 5 là các phi đoàn khu trục (kể cả phản lực), số 6 có thể xem như không được sử dụng (lúc đầu định dành cho thủy phi cơ nhưng không thành, sau đó dùng cho các phi đoàn oanh tạc cơ nhưng cũng không tồn tại được lâu, vì chỉ có một phi đội oanh tạc duy nhứt, sử dụng oanh tạc cơ B-57 Canberra, được thành lập là Biệt Ðội 615 do Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Biện làm Chỉ Huy Trưởng, nhưng sớm bị giải thể vào tháng 4-1966 vì phi cơ B-57 không đáp ứng được nhu cầu chiến trường và bị thiệt hại quá nhiều), số 7 là các phi đoàn không thám điện tử, tiếng Anh gọi là Electronic Intelligence = ELINT hay Communications Intelligence = COMINT, một bộ phận của công tác tình báo tín hiệu, Signal Intelligence = SIGINT), số 8 là các phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ trang, gunship, hỏa long hay cường kích), và số 9 là các phi đoàn huấn luyện. Cách thức đặt phiên hiệu như sau:
Sau khi đã có phiên hiệu của phi đoàn đầu tiên rồi thì cứ cộng thêm 2 sẽ có các phiên hiệu của các phi đoàn kế tiêp. Do đó, phiên hiệu của tất cả các phi đoàn của KQ VNCH được quy định như sau: 7
Theo hệ thống phiên hiệu của KQ VNCH vừa trình bày trên đây, hai Phi Ðoàn 110 và 120 là 2 phi đoàn quan sát. Phi Ðoàn 110, trong thời Pháp thuộc, mang tên là 1er GAOAC (Group Aérien d’Observation et d’Accompagnement au Combat, gọi tắt là GAO) được thành lập ngày 1-10-1952 tại Nha Trang, chuyển về TSN năm 1953, di chuyển ra Huế năm 1954, về lại TSN năm 1955, di chuyển ra Ðà Nẵng tháng 11 năm 1956, và chính thức trở thành Phi Ðoàn 110 Quan Sát vào tháng 01 năm 1963. Phi Ðoàn còn được biết dưới nhiều tên khác nhau như Phi Ðoàn 1 Quan Sát, Ðệ Nhất Phi Ðoàn Quan Sát, và Phi Ðoàn Thiên Phong. Các vị Phi Ðoàn Trưởng lần lượt là: Nguyễn Ngọc Oánh, Trần Phước, Nguyễn Trọng Ðệ, Ngô Tấn Diêu, Phan Văn Mạnh, Võ Trung Nhơn, Lê Sĩ Thắng, Nguyễn Tài Hiệp (Xử Lý Thường Vụ).8 Phi Ðoàn 120, được thành lập vào tháng 5-1971 tại Ðà Nẵng; Phi Ðoàn Trưởng: Trung Tá Lê Công Thịnh. Cả 2 phi đoàn đều được trang bị những loai phi cơ quan sát hiện đại nhứt của thập niên 1970 do Hoa Kỳ cung cấp: Phi cơ quan sát O-1 Bird Dog Phi cơ O-1 Bird Dog, do hảng Cessna sản xuất, là phi cơ liên lạc được thiết kế lại từ phi cơ L-19 đã được KQ VNCH sử dụng từ giữa thập niên 1950. O-1 Bird Dog có những đặc tính như sau: 9
Phi cơ quan sát U-17 A/B Skywagon Phi cơ quan sát U-17 A/B Skywagon, cũng do hảng Cessna sản xuất, có những đặc tính như sau: 10
Phi Ðoàn Vận Tải 427, mang danh hiệu Thần Long, được thành lập vào tháng 2-1972 tại Căn Cứ KQ Phù Cát, Bình Ðịnh, thuộc Vùng II, với ban chỉ huy như sau: 11
Phi Ðoàn 427 là phi đoàn đầu tiên của KQ VNCH được trang bị phi cơ C-7 Caribou do công ty De Havilland (của Canada) sản xuất: Phi cơ vận tải C-7A Caribou Phi cơ C-7 Carbou là một phi cơ vận tải thuộc loại không cần phi đạo dài (chỉ cần khoảng 300 m thôi) trong lúc đáp và cất cánh (STOL: short takeoff and landing), mang những đặc tính như sau: 12
Nhờ khả năng đặc biệt của phi cơ C-7 Caribou, như có thể đáp xuống bất cứ đường băng nào, bằng cỏ hay đất nện, không cần bằng bê-tông, và chỉ cần dài khoảng 300 m là đủ, Phi Ðoàn 427 đã hằng ngày thực hiện được những phi vụ vô cùng nguy hiểm để tiếp tế và tải thương cho các đơn vị Biệt Ðộng Quân Biên Phòng (cũng như các đơn vị bạn khác) đồn trú tại các địa điểm rừng núi hiểm trở và hẻo lánh trong phạm vi trách nhiệm của Quân Ðoàn I. Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 41 Chiến Thuật:
Không Ðoàn 51 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 51 Chiến Thuật Ðóng tại Ðà Nẵng, Không Ðoàn 51, với Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Nguyễn Văn Vượng, gồm có tất cả 6 phi đoàn trực thăng là các phi đoàn 213, 233, 239, 247, 253, và 257. So với các ngành liên lạc, vận tải, và khu trục, ngành trực thăng tương đối sinh sau đẻ muộn, nhưng lại là ngành phát triển tương đối nhanh và mạnh mẻ nhứt của KQ VNCH. 13 Thông thường các phi đoàn trực thăng UH-1 đều có 4 phi đội, 3 phi đội trang bị nhẹ (slick) và 1 phi đội võ trang (gun), mỗi phi đội có 8 chiếc, tổng cộng 32 chiếc trực thăng UH-1. Một vài phi đoàn có thể có đến 38 chiếc trực thăng UH-1. Các phi đoàn CH-47 Chinook thì cấp số là 16 chiếc. KQ VNCH, tính đến trước ngày 30-4-1975, đã tiếp nhận từ quân đội Mỹ tổng cộng khoảng 800 trực thăng UH-1 và 100 trực thăng CH-47 Chinook. Các phi cơ trực thăng UH-1 của KQ VNCH đã được sử dụng trong rất nhiều phị vụ khác nhau, từ đổ quân (trong các cuộc hành quân trực thăng vận), tải thương, cho đến tiếp tế (các đơn vị, tiền đồn bị địch bao vây), và cứu nạn (truy tầm và tiếp cứu các phi công bị địch bắn rơi), vv. Phi Ðoàn 213 là phi đoàn kỳ cựu nhứt của Không Ðoàn 51. Phi đoàn được thành lập vào ngày 1-10-1961 với 20 chiếc trực thăng H-34 và với thành phần Ban Chỉ Huy như sau:
Trực thăng H-34 mang những đặc tính như sau: 14 Phi cơ trực thăng H-34
So với trực thăng H-19 do KQ Pháp để lại thì H-34 đã mạnh hơn, bay nhanh hơn và có tầm hoạt động rộng hơn. Từ sau 1965, khi quân Mỹ đã vào Việt Nam, và chiến thuật trực thăng vận được áp dụng gần như cho tất cả các cuộc hành quân lớn nhỏ, trực thăng H-34 đã dần dần được thay thế bởi trực thăng UH-1 có tầm hoạt động rộng hơn và có trang bị hỏa lực. Các phi đoàn trực thăng còn lại của Không Ðoàn 51 đều được thành lập sau 1970. Tất cả các Phi Ðoàn này (trừ Phi Ðoàn 247) cùng với Phi Ðoàn 213 đều sử dụng trực thăng UH-1. Phi Ðoàn 247 là phi đoàn duy nhứt của Không Ðoàn 51 Chiến Thuật sử dụng phi cơ CH-47 Chinook. Phi cơ trực thăng CH-47 Chinook là loại trực thăng lớn có khả năng vận tải và tiếp tế rất quan trọng. Phi cơ trực thăng CH-47 Trực thăng Chinook mang những đặc tính như sau: 15
Trực thăng UH-1, với biệt danh (nickname) là “Huey,” là loại trực thăng đa dụng, và về sau đã trở thành 1 biểu tượng của Chiến Tranh Việt Nam. Có thể nói mà không sợ sai lầm là khi nói đến Chiến Tranh Việt Nam thì cái hình ảnh đầu tiên mà mọi người Mỹ cũng như Việt nghĩ đến là chiếc trực thăng Huey. Trên thực tế, cái tính cách làm cho quân đội Mỹ khác hẳn quân đội Pháp chính là tính cơ động của quân Mỹ, và việc đó chính là do việc lục quân Mỹ sử dụng triêt để các phi cơ trực thăng trong các cuộc hành quân của họ. QLVNCH, từ sau 1965, cũng mang tính di động cao này, với những cuộc hành quân trực thăng vận lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ. Tuy nhiên, trực thăng Huey không phải chỉ được sử dụng để chuyển quân thôi, mà còn được sử dụng trong rất nhiều công tác khác, như thám thính, yểm trợ hỏa lực, khai quang, tải thương, tiếp tế, tiếp cứu, vv. Chính vì thế, trực thăng UH-1 đã có rất nhiều kiểu (model) khác nhau, 1A, 1B, 1D, 1H, vv mỗi kiểu thích hợp cho một loại công tác khác nhau.16,17 Phần lớn phi cơ trực thăng của KQ VNCH là loại UH-1H. Phi cơ trực thăng UH-1 Huey Phi cơ trực thăng UH-1 mang những đặc tính như sau: 18
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn trực thăng của Không Ðoàn 51 Chiến Thuật:
Không Ðoàn 61 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 61 Chiến Thuật Ðóng tại Ðà Nẵng, Không Ðoàn 61, thuộc Sư Ðoàn 1 KQ, gồm có tất cả 4 phi đoàn khu trục 516, 528, 538, và 550, sử dụng 2 loại phi cơ khu trục phản lực A-37B Dragonfly và F5-A/B Freedom Fighter. Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Thái Bá Ðệ. Phi Ðoàn 516 là phi đoàn kỳ cựu nhứt của Không Ðoàn 61:
Các phi đoàn còn lại của Không Ðoàn 61 đều được thành lập sau năm 1970:
Phản lực cơ A-37B Dragonfly mang những đặc tính như sau: 19 Phi cơ khu trục phản lực A-37B Dragonfly
. 1 đại liên 7,62 mm loại GAU-2B/A ở trước mủi . 8 ổ để gắn đại liên ở dưới cánh . 4 ổ để gắn hỏa tiển Sidewinder ở dưới cánh . 8 quả bom loại 500 cân Anh Trang bị hỏa lực cũa Phản lực cơ A-37B Dragonfly Phản lực cơ F-5A/B Freedom Fighter mang các đặc tính sau đây: 20 Phi cơ khu trục phản lực F-5A/B Freedom Fighter
. 2 đại liên 20 mm loại GAU-2B/A ở trước mủi . 2 ổ hỏa tiển Sidewinder . có thể mang nhiều loại bom khác nhau Dưới đây là bảng tóm lực thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 61 Chiến Thuật:
Sư Ðoàn 2 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 2 Không Quân Sư Ðoàn 2 KQ được chính thức thành lập vào tháng 7-1970 tại Nha Trang, với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Văn Lượng, về sau, vào ngày 1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng Cũng như phần lớn các tướng lãnh KQ VNCH, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng bị động viên vào Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh, tốt nghiệp (tháng 6-1952) với cầp bậc Thiếu Úy. Tháng 12-1952, ông trúng tuyển vào KQ, theo học và tốt nghiệp Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang vào tháng 8-1953.21 Sư Ðoàn 2 KQ gồm có 2 Không Ðoàn Chiến Thuật là Không Ðoàn 62 và Không Ðoàn 92. Không Ðoàn 62 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 62 Chiến Thuật Không Ðoàn 62 được thành lập vào tháng 3-1964 tại Pleiku, và đến tháng 1-1965 thì dời về Nha Trang. Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Trần Văn Minh, về sau là Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân.22 Không Ðoàn Phó là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tần, về sau là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 KQ. Không Ðoàn 62 gồm có tất cả 4 phi đoàn và 1 biệt đội: Phi Ðoàn 114, Phi Ðoàn 215, Phi Ðoàn 219, Biệt Ðội 259C, và Phi Ðoàn 817. Phi Ðoàn 114, theo phiên hiệu do KQ VNCH sử dụng, là một phi đoàn quan sát, mà tiền thân là Phi Ðoàn 3 Quan Sát được thành lập vào tháng 12-1961 tại Ðà Nẵng, được đổi tên Phi Ðoàn 114 vào tháng 1-1963, di chuyển lên Pleiku cuối năm 1963, và sau cùng về Nha Trang từ tháng 1-1965. Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Phan Quang Phúc. Phi Ðoàn 114 cũng sử dụng 2 loại phi cơ quan sát là O-1 và U-17 như các Phi Ðoàn 110 và 120, thuộc Sư Ðoàn 1 KQ đã trình bày bên trên. Phi Ðoàn 215, phi đoàn thứ nhì mang phiên hiệu này, là một phi đoàn trực thăng. Phi Ðoàn 215 thứ nhứt được thành lập vào đầu năm 1963 tại Tân Sơn Nhứt để phụ trách huấn luyện nhưng không có kết quả tốt nên đã bị giải tán vào tháng 5-1964. Ðến tháng 9-1964, một phi đoàn trực thăng mới được thành lập tại Ðà Nẵng và được mang phiên hiệu 215 này, với danh hiệu Thần Tượng và ban chỉ huy gồm:
Phi Ðoàn 215 cùng với Phi Ðoàn 213, đều sử dụng trực thăng UH-1, phụ trách huấn luyện và hành quân cho đến đầu năm1965 thì chuyển về Nha Trang. Phi Ðoàn 219, mang danh hiệu Long Mã, được thành lập tại Ðà Nẵng vào đầu năm 1966 do sự sáp nhập của 2 biệt đội trực thăng H-34 chuyên thả các toán Lôi Hổ của Lực Lượng Ðặc Biệt. Trong thời gian đầu, Phi Ðoàn 219 trực thuộc Biệt Ðoàn 83 đóng tại Tân Sơn Nhứt cho đến khi Biệt Ðoàn 83 bị giải tán vào năm 1969 thì chuyển sang trực thuộc Không Ðoàn 62 Chiến Thuật. Khi mới thành lập Phi Ðoàn 219 có ban chỉ huy đầu tiên như sau:
Sau khi thành lập, Phi Ðoàn 219, sử dụng trực thăng H-34, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ thả các toán Lôi Hổ. Cuối năm 1971, cũng như các Phi Ðoàn 213 và 215, Phi Ðoàn 219 chuyển sang sử dụng trực thăng UH-1. Biệt Ðội 259C là Biệt Ðội C của Phi Ðoàn 259, mang danh hiệu Nhân Ái, là một phi đoàn sử dụng trực thăng UH-1 và chuyên về tải thương. Phi Ðoàn 259 gồm có tất cả 8 biệt đội mang ký hiệu từ chữ A đến chữ H, và trú đóng tại các Căn Cứ KQ như trong bảng liệt kê sau đây:
Phi Ðoàn 817, theo hệ thống phiên hiệu của KQ VNCH, là một phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ trang, gunship, cường kích hay hỏa long) được trang bị phi cơ AC-47D Spooky như trong hình dưới đây: Phi cơ AC-47D Spooky chính là một chiếc phi cơ DC-3 Dakota được trang bị hỏa lực hùng hậu để thực hiện các phi vụ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị bạn hay các tiền đồn hẻo lánh bị địch bao vây. Loại phi cơ này mang những đặc tính như sau: 23
. 3 đại liện 7,62 ly loại GAU-2/M134 minigun, có thể bắn với vận tốc 2000 viên/phút . hoặc 10 đại liên 7,62 ly loại Browning AN/M2 . 48 hỏa châu loại Mk 24 Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 62 Chiến Thuật:
Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 của QLVNCH tấn công sang Hạ Lào để phá hủy các căn cứ hậu cần trên đường mòn Hồ Chí Minh của địch quân trong 2 tháng 2 và 3-1971, các phi đoàn trực thăng của KQ VNCH đã tham chiến, thực hiện rất nhiều những phi vụ đổ quân, tiếp tế, và tải thương, và đã chịu nhiều thiệt hại. Rất tiếc hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào tổng kết những thiêt hại của ngành trực thăng trong cuộc hành quân hết sức quan trọng này. Bài viết “Chuyến bay tử thần vào Ðồi 31 Hạ Lào” của tác giả Bùi Tá Khánh, một phi công của Phi Ðoàn 219 Long Mã, ghi lại những hy sinh bi thương và hùng tráng của 2 phi hành đoàn thuộc Phi Ðoàn 219, mà chính tác giả là một nhân chứng.24 Một chi tiết cần lưu ý là trong bài viết này, tác giả cho biết Phi Ðoàn 219, tại thời điểm này (tháng 2-1971), vẫn còn sử dụng trực thăng H-34 và vẫn còn thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn 1 KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Không Ðoàn 92 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 92 Chiến THuật Không Ðoàn 92 được thành lập vào giữa năm 1972 và đóng tại Phan Rang, với Không Ðoàn Trưởng là Trung Tá (sau thăng cấp lên Ðại Tá) Lê Văn Thảo, gồm có 3 phi đoàn khu trục phản lực cơ A-37 là các Phi Ðoàn 524, 534, và 548, và một Biệt Ðội tải thương là Biệt Ðội 259D với phi cơ trực thăng UH-1. Phi Ðoàn 524, mang danh hiệu Thiên Lôi, mà tiền thân là 1 Biệt Ðội của Phi Ðoàn 516, được thành vào ngày 15-9-1965 tại Nha Trang, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Nguyễn Quang Ninh, và Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Sử Ngọc Cả. Phi Ðoàn 524 là phi đoàn đầu tiên tiếp nhận khu trục phản lực cơ A-37. Phi Ðoàn 534, mang danh hiệu Kim Ngưu, cũng là một phi đoàn khu trục phản lực cơ A-37, được thành lập vào giữa năm 1972 tại Phan Rang với Phi Ðoàn Trường đầu tiên và cũng là duy nhứt (cho đến ngày 30-4-1975) là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thi (về sau thăng Trung Tá) Phi Ðoàn 548, mang danh hiệu Ó Ðen, cũng được trang bị khu trục phản lực cơ A-37, được thành lập vào cuối năm 1972 tại Phan Rang, với Phi Ðoàn Trường đầu tiên là Thiếu Tá Trần Mạnh Khôi (sau thăng Trung Tá). Ngoài các phi đoàn khu trục phản lực cơ vừa kể trên, Không Ðoàn 92 Chiến Thuật còn có Biệt Ðội tải thương 259D với phi cơ trực thăng UH-1. Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 92 Chiến Thuật:
Sư Ðoàn 3 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 3 Không Quân Sư Ðoàn 3 KQ được thành lập vào tháng 5-1970 tại Biên Hòa với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Hỳnh Bá Tính, về sau, vào ngày 1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng. Chuần Tướng Tính tốt nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Văn Duyệt) của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức (tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy, trúng tuyển vào KQ, và tốt nghiệp khóa huấn luyện hoa tiêu tại Marrakech, Maroc, Bắc Phi, trờ thành một trong những phi công đầu tiên của KQ VNCH. Trước khi đảm nhận chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ, Tướng Tính đã từng giữ các chức vụ: Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 2 Quan Sát tại Nha Trang và Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 74 Chiến Thuật tại Cần Thơ.25 Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính Sư Ðoàn 3 KQ gồm có 3 không đoàn là các Không Ðoàn 23 Chiến Thuật, Không Ðoàn 43 Chiến Thuật, và Không Ðoàn 63 Chiến Thuật. Không Ðoàn 23 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 23 Chiến Thuật Không Ðoàn 23 Chiến Thuật được thành lập vào giữa năm 1964 tại Biên Hòa, với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Phạm Long Sửu, và Không Ðoàn Phó là Thiếu Tá Phạm Phú Quốc. Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Hoàng Thanh Nhã. Không Ðoàn 23 gồm có tất cả 4 phi đoàn: 2 phi đoàn quan sát là các Phi Ðoàn 112 và Phi Ðoàn 124 sử dụng các phi cơ O-1 Bird Dog và U-17 Skywagon; và 2 phi đoàn khu trục là các Phi Ðoàn 514 và Phi Ðoàn 518 sử dụng phi cơ khu trục A-1 Skyraider. Phi Ðoàn 112, mà tiền thân là Phi Ðoàn 2 Quan Sát và Trợ Chiến được thành lập vào tháng 1-1952 tại Nha Trang, di chuyển về Tân Sơn Nhứt tháng 10-1959, đổi tên thành Phi Ðoàn 112, danh hiệu là Thanh Xà, vào tháng 1-1963, và sau cùng chuyển về Biên Hòa tháng 6-1964. Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Võ Dinh (cấp bậc sau cùng là Chuẩn Tướng, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân 26), và Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Lý Thành Ba). Phi Ðoàn 124, phi đoàn quan sát cuối cùng của KQ VNCH, mang danh hiệu Thần Ðiểu, được thành lập vào cuối năm 1971 tại Biên Hòa, với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá Võ Trung Nhơn. Phi Ðoàn 514, mang danh hiệu Phượng Hoàng, là phi đoàn khu trục kỳ cựu nhứt của Không Lực VNCH. Tiền thân của nó chính là Phi Ðoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát được thành lập vào năm 1956, trang bị phi cơ F-8F Bearcat, với Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Huỳnh Hữu Hiền (về sau thăng cấp Ðại Tá và là Tư Lệnh Không Quân trong một thời gian ngắn, 1962-1963). Năm 1960, phi đoàn đổi tên thành Phi Ðoàn 514, trang bị phi cơ A1-H Skyraider, với Chỉ Huy Trưởng là Ðại Úy Nguyễn Quang Tri. Ðại Tá Tri là một trong những phi công khu trục đầu tiên của Việt Nam, tốt nghiệp từ Trường Võ Bị Không Quân Pháp nổi tiếng Salon-de-Provence, là vị chỉ huy đã đào tạo rất nhiều phi công khu trục tài ba cho KQVNCH. Một trong những phi công này là ông Lê Bá Ðịnh về sau là Thiếu Tá Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn khu trục 530 Thái Dương và Trung Tá Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 72 Chiến Thuật thuộc Sư Ðoàn 6 KQ ở Pleiku. Ðại Tá Tri về sau thăng lên cấp Ðại Tá, và là Phụ Tá Tư Lệnh KQ đặc trách về Phòng Không tại Bộ Tư Lệnh KQ. Sau khi sang Mỹ trong diện HO, Ðại Tá Tri là người chủ trương hai Trang Web nổi tiếng trong giới cựu quân nhân Không Quân là Bạn Già Không Quân và Cánh Chim Tự Do. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng của Phi Ðoàn 514 Phượng Hoàng là Trung Tá Nguyễn Văn Vượng. Phi Ðoàn 518, danh hiệu Phi Long, được thành lập vào đầu năm 1964, trang bị phi cơ khu trục A1-H Skyraider, với Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Phạm Phú Quốc (là một trong 2 phi công đã ném bom Dinh Ðộc Lập vào ngày 27-2-1962; ngày 19-4-1965, lúc đó đã thăng lên cấp Trung Tá và đang giữ chức vụ Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 23 Chiến Thuật, ông đã hy sinh khi chỉ huy 6 phi tuần Skyraider trong một phi vụ Bắc Phạt oanh tạc Hà Tỉnh). Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Lê Quốc Hùng Phi cơ khu trục A1-H Skyraider mà 2 Phi Ðoàn 514 và 518 được trang bị chính là phi cơ khu trục AD-6 của hảng Douglas như trong hình dưới đây: Phi cơ khu trục A1-H Skyraider mang những đặc tính như sau: 27
. 4 đại liên 20 mm loại AN-M3 . 15 rack để gắn bom hay hỏa tiển dưới cánh và thân mình tối đa là 3.600 kg Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 23 Chiến Thuật:
Không Ðoàn 43 Chiến Thuật Huy hiện Không Ðoàn 43 Chiến Thuật Không Ðoàn 43 Chiến Thuật, được thành lập tại Biên Hòa, là một không đoàn chuyên về trực thăng, gồm có tất cả 6 phi đoàn và 1 biệt đội là: 1 phi đoàn trang bị trực thăng CH-47 Chinook là Phi Ðoàn 237, 5 phi đoàn trang bị trực thăng UH-1 là các Phi Ðoàn 221, 223, 231, 245, 251, và Biệt Ðội 259E phụ trách tải thương cũng trang bị trực thăng UH-1. Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Vũ Quang Triệu. Dưới đây là bảng liệt kê các đơn vị của Không Ðoàn 43 Chiến Thuật với tên họ các vị chỉ huy trưởng, cùng với danh hiệu và huy hiệu:
Vào mùa hè 1972, Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức, Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 221 (từ tháng 1-1973, là Trung Tá Không Ðoàn Phó, Không Ðoàn 64 Chiến Thuật, thuộc Sư Ðoàn 4 KQ ở Cần Thơ), là người chỉ huy tất cả các cuộc hành quân trực thăng vận (đổ quân), tiếp tế, và tải thương của Phi Ðoàn 221 cho chiến trường An Lộc.28 Không Ðoàn 63 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 63 Chiến Thuật Ðây là một không đoàn gồm toàn khu trục phản lực cơ F-5. Do đó Không Ðoàn 63 Chiến Thuật cũng được biết đến dưới biệt danh (nickname) là Không Ðoàn F-5 và hồm có tất cả 6 Phi Ðoàn sử dụng phản lực cơ F-5: đó là các Phi Ðoàn 522, 536, 538 (biệt phái cho Sư Ðoàn 1 KQ tại Ðà Nẵng, như đã ghi chú bên trên), 540, 542, và 544, với danh hiệu, huy hiệu, và chỉ huy trưởng như sau:
Sư Ðoàn 4 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 4 Không Quân Sư Ðoàn 4 KQ được thành lập vào tháng 3-1970 tại Cần Thơ với Sư Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Tá Nguyễn Huy Ánh, về sau, vào ngày 1-11-1971, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Ánh là dân chính trúng tuyển vào KQ, được gửi sang Pháp theo học các khóa huấn luyện hoa tiêu, và tốt nghiệp thủ khoa khóa 1955 với cấp bậc Thiếu Úy. Ông cũng là một trong những phi công trực thăng đầu tiên được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ, Tướng Ánh đã từng là Phi Ðoàn Trưởng các Phi Ðoàn trực thăng 215, 211, và Không Ðoàn Trưởng các Không Ðoàn Chiến Thuật 74 và 62. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn trực thăng vì công vụ ngày 27-4-1972, và được truy thăng lên cấp Thiếu Tướng 29 Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh Sau đó Ðại Tá Nguyễn Hữu Tần, đang giữ chức vụ Tham Mưu Phó Hành Quân tại Bộ Tư Lệnh KQ, được đề cử thay thế Thiếu Tướng Ánh làm Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ vào cuối tháng 4-1972. Ngày 1-4-1974, Ðại Tá Tần vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Tần tốt nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Lợi) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh (tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy; sau đó chuyển sang KQ, theo học và tốt nghiệp Thủ Khoa Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát (1956) tại Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang. Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Lệnh Sư Ðoàn 4 KQ, ông đã từng giữ các chức vụ: Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 1 và Phi Ðoàn 2 Quan Sát, Không Ðoàn Phó Không Ðoàn 62 Chiến thuật lúc mới thành lập do Trung Tá Trần Văn Minh (sau là Trung Tướng Tư Lệnh KQ) là Không Ðoàn Trưởng.30 Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần Sư Ðoàn 4 KQ gồm có 3 không đoàn là Không Ðoàn 64 Chiến Thuật, Không Ðoàn 74 Chiến Thuật, và Không Ðoàn 84 Chiến Thuật. Không Ðoàn 64 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 64 Chiến Thuật Không Ðoàn 64 Chiến Thuật đóng tại Cần Thơ, với Không Ðoàn Trưởng là Trung Tá Trương Thành Tâm (trước là Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn trực thăng 217), gồm có tất cả 3 phi đoàn và 1 biệt đội trực thăng: 2 phi đoàn trực thăng UH-1 là Phi Ðoàn 217 và Phi Ðoàn 255, 1 phi đoàn trực thăng CH-47 Chinoook là Phi Ðoàn 249, và 1 biệt đội tải thương là Biệt Ðội 259F cũng sử dụng trực thăng UH-1. Phi Ðoàn 217, mang danh hiệu Thần Ðiểu, là một trong những phi đoàn trực thăng đầu tiên của KQ VNCH khi chuyển từ trực thăng H-19 của KQ Pháp giao lại sang trực thăng H-34. Thành lập tại Ðà Nẵng vào tháng 4-1964, Phi Ðoàn 217 có ban chỉ huy đầu tiên như sau: 31
Sau đó phi đoàn chuyển về đóng tại Tân Sơn Nhứt một thời gian rồi chuyển về và đổn trú vĩnh viễn tại phi trường Trà Nóc ở Cần Thơ. Một thời gian sau, Phi Ðoàn 217 có ban chỉ huy mới với Thiếu Tá (về sau thăng lên Trung Tá) Trương Thành Tâm làm Phi Ðoàn Trưởng và Ðại Úy Nguyễn Thanh Hải (về sau thăng lên Trung Tá, công tác tại Phòng Thanh Tra, phụ trách về An Phi, tại Bộ Tư Lệnh KQ) là Phi Ðoàn Phó. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Nguyễn Văn Vọng. Sau khi về Trà Nóc một thời gian, Phi Ðoàn 217 chuyển sang trang bị trực thăng UH-1. Phi Ðoàn 255, mang danh hiệu Xà Vương, là một trong những phi đoàn trực thăng UH-1 được thành lập sau cùng (đầu năm 1973) của KQ VNCH, với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Kim Huờn. Phi Ðoàn 249 là phi đoàn trực thăng CH-47 Chinook được thành lập sau cùng (tháng 12-1972) của KQ VNCH, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Tống Phước Hào (về sau thăng cấp lên Trung Tá). Ðơn vị cuối cùng của Không Ðoàn 64 Chiến Thuật là một phi đội UH-1 chuyên thực hiện các phi vụ tải thương: đó là Biệt Ðội 259F mà Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Thành Quới. Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các đơn vị của Không Ðoàn 64 Chiến Thuật:
Ghi chú: Thiếu Tá Phạm Văn Trung, vào KQ Khóa 63A, đã từng phục vụ tại các phi đoàn trực thăng 215, 219, 237, 241, nhậm chức Phi Ðoàn Trường Phi Ðoàn 249 (Chinook) ngày 10-12-1974, và hy sinh ngày 12-12-1974 tại chiến trường Mộc Hóa khi chiếc Chinook của ông bị trúng hỏa tiển tầm nhiệt SA7. Ông được truy thăng lên Trung Tá.32 Không Ðoàn 74 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 74 Chiến Thuật Không Ðoàn 74 Chiến Thuật được thành lập tại Cần Thơ vào tháng 4-1964 với các vị Không Ðoàn Trưởng lần lượt như sau: đầu tiên là Trung Tá Trần Văn Minh (về sau là Trung Tướng Tư Lệnh KQ), thứ nhì là Trung Tá Huỳnh Bá Tinh (về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ), thứ ba là Trung Tá Nguyễn Huy Ánh (về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ), và cuối cùng là Ðại Tá Nguyễn Quang Ninh. Không Ðoàn 74 Chiến Thuật gồm có tất cả 5 phi đoàn:
Phi Ðoàn 116, mang danh hiệu Sơn Ca (trước là Thần Ưng), được thành lập vào tháng 6-1964 tại Nha Trang, sau đó chuyễn về Cần Thơ vào tháng 7-1964. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng (xử lý thường vụ) là Trung Tá Bùi Thanh Sử. Phi Ðoàn 122, mang danh hiệu Hoa Mi (trước là Thần Tiễn), được thành lập vào tháng 8-1972, với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá Trần Trọng Khương. Phi Ðoàn 520, mang danh hiệu Thần Báo, được thành lập năm 1964 tại Biên Hòa, với Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Nguyễn Ngọc Biện, trang bị phi cơ khu trục cánh quát A-1H Skyraider, di chuyển về Cần Thơ vào giữ năm 1965, và đến năm 1968 thì chuyển sang trang bị với khu trục phản lực cơ A-37. Phi Ðoàn 526, mang danh hiệu Quỷ Vương, được thành lập năm 1971 tại Cần Thơ, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Huỳnh Hữu Hải. Phi Ðoàn 546, mang danh hiệu Thiên Sứ, được thành lập vào cuối năm 1972, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Lê Mộng Hoan. Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 74 Chiến Thuật:
Không Ðoàn 84 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 84 Chiến Thuật Không Ðoàn 84 Chiến thuật, được thành lập tại Sóc Trăng sau dời về Cần Thơ, gồm có 3 phi đoàn UH-1 là các Phi Ðoàn 211, 225 và 227, và 1 biệt đội tải thương cũng sử dụng trực thăng UH-1 là Biệt Ðội 259H, với các vị chỉ huy, danh hiệu và huy hiệu như sau:
Sư Ðoàn 5 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 5 Không Quân Sư Ðoàn 5 KQ được thành lập vào tháng 1-1971 tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Phan Phụng Tiên, về sau, vào ngày 1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Tiên tốt nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Lợi) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh (tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy. Sau đó ông chuyển sang KQ. Ông tốt nghiệp Khóa 52F1 tại Marrakech, Maroc, Bắc Phi cùng với các ônh Huỳnh Hữu Hiền (về sau là Ðại Tá Tư Lệnh KQ, 1962-1963), Phạm Ngọc Sang (về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 6 KQ), và Huỳnh Bá Tính (về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ). Năm 1954 ông thăng cấp Ðại Úy và làm Chỉ Huy Trưởng Phi Ðoàn 1 Vận Tải. Ông chính là phi công trưởng lái chiếc vận tải cơ C-47 đưa Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi và các sĩ quan nhảy dù sang tị nạn chính trị tại Cao Miên sau khi cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 thất bại. Sau khi cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 thành công, ông trở về nước, thăng cấp Thiếu Tá. Năm 1968, ông thăng cấp Ðại Tá và được bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhứt sau khi Ðại Tá Lưu Kim Cương tử trận.33 Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên Sư Ðoàn 5 KQ gồm có 2 không đoàn: Không Ðoàn 33 Chiến Thuật và Không Ðoàn 53 Chiến Thuật. Không Ðoàn 33 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 33 Chiến Thuật Không Ðoàn 33 Chiến Thuật, đóng tại Tân Sơn Nhứt, được thành lập vào tháng 1-1964 với Chỉ Huy Trưởng lần lượt là các sĩ quan cao cấp sau đây:
Không Ðoàn 33 gồm có tất cả 5 phi đoàn và 1 biệt đội: Phi Ðoàn đặc nhiệm 314, 2 Phi Ðoàn vận tải 429 và 431, 2 Phi Ðoàn không thám điện tử 716 và 718, và Biệt Ðội tải thương 259G. Phi Ðoàn đặc nhiệm 314, mang danh hiệu Thần Tiễn, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Trí, trên nguyên tắc là một phi đoàn vận tải, sử dụng một số phi cơ vận tải như C-47, DC-6B, nhưng trên thực tế đây là một phi đoàn đặc nhiệm chuyên phụ trách việc chuyên chở các yếu nhân chính trị và quân sự của chính phủ VNCH. Do đó trong giới KQ người ta thường gọi Phi Ðoàn 314 là Phi Ðoàn VIP (chữ tắt tiếng Anh mà giới truyền thông Hoa Kỳ thường sử dụng: Very Important Persons = Những Người Rất Quan Trọng).34 Phi cơ C-47 của Phi Ðoàn 314 Thần Tiễn Phi cơ DC-6B của Phi Ðoàn 314 Thần Tiễn Hai Phi Ðoàn 429 và 431, cùng với Phi Ðoàn 427 (đã đề cập đến trong phần về Sư Ðoàn 1 KQ bên trên) đều là các phi đoàn vận tải sử dụng phi cơ C-7A Caribou. Cả 3 phi đoàn này đều được thành lập tại Căn Cứ KQ Phù Cát, thuộc tỉnh Bình Ðịnh, đầu tiên là Phi Ðoàn 427 (tháng 2-1972), kế đến là Phi Ðoàn 429 (tháng 4-1972), và sau cùng là Phi Ðoàn 431 (tháng 6-1972). Tháng 6-1972, Phi Ðoàn 427 di chuyển ra đóng tại Căn Cứ Ðà Nẵng và trực thuộc Không Ðoàn 41 của Sư Ðoàn 1 KQ. Phi Ðoàn 429, có danh hiệu là Sơn Long, với Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Cung Thăng An, Chỉ Huy Phó là Trung Tá Nguyễn Viết Xương; tháng 4-1973, phi đoàn di chuyển về Căn Cứ Tân Sơn Nhứt và trực thuộc Không Ðoàn 33 Chiến Thuật. Phi Ðoàn 431, có danh hiệu là Phương Long, với Chì Huy Trưởng là Trung Tá Nguyễn Viết Xương (từ Phi Ðoàn 429 chuyển sang), Chỉ Huy Phó là Thiếu Tá Huỳnh Ngọc Nghĩa, và Trưởng Phòng Hành Quân là Thiếu Tá Nguyễn Ðình Thảo; tháng 11-1972, phi đoàn di chuyển về Căn Cứ Tân Sơn Nhứt và trực thuộc Không Ðoàn 33 Chiến Thuật.35 Hai Phi Ðoàn 716 và 718 là những phi đoàn không thám điện tử, tuy là các đơn vị của Sư Ðoàn 5 KQ, nhưng thật ra là những phi đoàn đặt dưới sự điều động của Ðơn Vị 17 của Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu (đặc trách về tình báo tín hiệu –Signal Intelligence hay SIGINT–).36 Phi Ðoàn 716 sử dụng phi cơ U-6A Beaver là một kiểu đã được thiết kế lại của phi cơ quan sát L-20 của hảng de Havilland (Canada) như trong hình sau đây: Phi cơ U-6A Beaver Phi cơ U-6A Beaver mang những đặc tính như sau:
Phi Ðoàn 718 được chính thức thành lập vào năm 1973 tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt với ban chỉ huy như sau: 37
Phi Đoàn 718 thực hiện các phi vụ không thám điện tử (thường có thời gian từ 3 đến 5 giờ đồng hồ), là một phi đoàn có quân số lớn nhất với hơn 500 quân nhân các cấp và 36 phi cơ EC-47 được trang bị với hệ thống ALR-34. Phi hành đoàn âm thầm thi hành nhiệm vụ, không bao giờ tiết lộ việc hành quân kể cả người thân. Nhân viên Phi Đoàn 718 phải qua máy nói sự thật (Polygragh test) và tuân theo những luật lệ đặc biệt như phải giữ bí mật về hoạt động và nhất là không được chụp ảnh của phi cơ bất luận bên trong hay bên ngoài. Vì lý do nầy hình ảnh hoạt động của Phi Đoàn 718 rất hiếm. Phi cơ EC-47D Dakota Phi cơ EC-47D Dakota chính là một dạng phi cơ quân sự, được đặc biệt trang bị thêm các máy móc điện tử dùng trong không thám điện tử, của phi cơ DC-3 Dakota của hảng Douglas nổi tiếng là chiếc phi cơ được thiết kế thành công nhứt trong lịch sử hàng không thế giới (hiện nay DC-3 là phi cơ đang còn được sử dụng có tuổi đời cao nhứt thế giới –ra đời từ năm 1936– ; vào năm 2013 người ta ước lượng vẫn còn có khoảng 2.000 chiếc DC-3 còn đang được sử dụng trên khắp thế giới). Phi cơ EC-47D Dakota mang những đặc tính như sau: 38
Biệt Ðội tải thương 259G, cũng như tất cả các biệt đội thuộc Phi Ðoàn 259, sử dụng phi cơ trực thăng UH-1. Bên dưới là bảng liệt kê danh hiệu và huy hiệu của các phi đoàn thuộc Không Ðoàn 33 Chiến Thuật:
Không Ðoàn 53 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 53 Chiến Thuật Không Ðoàn 53 Chiến Thuật, với Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Huỳnh Văn Hiến, cũng đồn trú tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt, gồm có tất cả 8 phi đoàn:
Phi Ðoàn 413, mang danh hiệu Xích Long, tiếp nhận 16 phi cơ C-119G vào năm 1968, hoạt động được 3 năm và bị giải tán vào cuối năm 1971, tất cả nhân viên của phi đoàn được điều sang Phi Ðoàn 821 sử dụng phi cơ AC-119K Stinger Phi Ðoàn 421 được thành lập vào tháng 4-1971 với Phi Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn. Phi Ðoàn 423 được thành lập vào tháng 7-1971 với Phi Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Mạc Hữu Lộc. Phi Ðoàn 425 được thành lập vào tháng 12-1974 với Phi Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân. Mổi phi đoàn đều được trang bị 16 chiếc C-123K. Sau 2 năm hoạt động tổng cộng có tất cả 10 chiếc trong tổng số 48 chiếc C-123K Provider của 3 phi đoàn này đã bị rớt, trong đó có 4 chiếc bị hỏa lực địch bắn hạ. Cả 3 phi đoàn này bị giải tán vào đầu năm 1973 và toàn bộ phi cơ C-123 đã bị trả lại cho quân đội Mỹ.39 Hai Phi Ðoàn 435 và 437 đều được trang bị giống nhau: mổi phi đoàn 16 chiếc vận tải cơ C-130 Hercules. Phi cơ C-119 Flying boxcar là loại phi cơ vận tải với 2 động cơ cánh quạt do công ty Fairchild sản xuất như hình dưới đây: Phi cơ vận tải C-119 Flying Boxcar Phi cơ C-119 Flying Boxcar mang những đặc tính như sau: 40
. người: 67 binh sĩ, hoặc 35 cáng thương binh . hàng hóa: 12.500 kg Phi cơ C-123 Provider cũng là 1 phi cơ vận tải với 2 động cơ cánh quạt do công ty Fairchild sản xuất như trong hình dưới đây: Phi cơ vận tải C-123 Provider Phi cơ C-123 Provider mang những đặc tính như sau: 41
. người: 60 binh sĩ, hoặc 50 cáng thương binh . hàng hóa: 11.000 kg Phi cơ C-130 Hercules là phi cơ vận tải lớn nhứt, với 4 động cơ cánh quạt, được Hoa Kỳ chuyển giao cho KQ VNCH trong kế hoạch Enhance Plus sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào đầu năm 1973: Phi cơ vận tải C-130A Hercules Phi cơ C-130A Hercules mang những đặc tính như sau: 42
. người: 92 hành khách, hoặc 64 binh sĩ nhảy dù, hoặc 74 cáng thương binh với 5 nhân viên quân y . xe cộ: 2-3 xe jeep loại Humvees, hoặc 2 thiết vận xa M113, hoặc 1 đại bác 155 mm loại Caesar self-propelled howitzer Phi Ðoàn 821, một phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ trang, gunships, hay hỏa long hay cường kich), mang danh hiệu Tinh Long, được thành lập khoảng đầu năm 1973 tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt, khi Không Lực Hoa Kỳ chuyển giao tất cả phi ơ AC-119K cho KQ VNCH theo Chương trình “Enhance Plus” sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết. Ngoài các phi đội đóng tại Tân Sơn Nhứt để yểm trợ cho Vùng III và Vùng IV, Phi Ðoàn 821 còn có thêm 2 Biệt đội, một đóng tại Ðà Nẵng để yểm trợ cho Vùng I và một Biệt Ðội đóng tại Phù Cát để yểm trợ cho Vùng II; sau vụ triệt thoái của Quân Ðoàn II giữa tháng 3-1975, Biệt Ðội đóng tại Phù Cát phải di chuyển về Phan Rang, và vài ngày sau thì di chuyển về Tân Sơn Nhứt luôn. Phi Ðoàn 821 gồm có một ban chỉ huy như sau: 43, 44
Phi Ðoàn 821 gồm khoảng 300 nhân viên bao gồm các hoa tiêu (phi công chánh và phụ), điều hành viên, cơ phi, chuyên viên hỏa châu và xạ thủ đại liên. Các phi vụ của Phi Ðoàn Tinh Long 821 luôn luôn được thực hiện vào ban đêm để yểm trợ cho các xã ấp, quận ly, tiền đồn, hẻo lánh, xa xôi đang bị Cộng quân lợi dụng việc tiếp viện khó khăn để tấn công và mưu toan tràn ngập. Phi Ðoàn Tinh Long 821 được trang bị phi cơ AC-119K Stinger mang những đặc tính sau đây: 45
4 khẩu đại liên 7,62 mm loại SUU-11A với 21.500 viên đạn; về sau được thay bằng loại MXU-470/A 2 khẩu đại liên 20 mm loại M61-A1 với 3.000 viên đạn (hai loại đại liên này đều được điều khiển bằng máy vi tính) 24 hỏa châu loại MK-24 với máy phóng LAU-74/A 1 đèn rọi có độ sáng 1,5 triệu nến 3 loại máy radar: APQ-136 (forward looking radar), AAD-4 (forward looking infrared radar), và AN/APQ-133 (beacon tracking radar) máy chống radar địch APR-25/26 (electronic countermeasures (ECM) warning device) Trong tháng 4-1975, cũng như một số đơn vị khác của Sư Ðoàn I đã di tản về đồn trú tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt, Phi Ðoàn 821 vẫn còn tiếp tục chiến đấu và hy sinh trong ngày cuối cùng của cuộc chiến như trong bài viết sau đây: 46 “… Khoảng 7 giờ sáng ngày 29 tháng 4, Tinh Long 7, chiếc AC-119K cuối cùng, đang tiêu diệt VC ở vòng đai phi trường Tân Sơn Nhât, bị trúng hỏa tiễn SA-7 bốc cháy và nổ tung trên bầu trời, phi hành đoàn hy sinh… “ Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 53 Chiến Thuật:
Sư Ðoàn 6 Không Quân Huy hiệu Sư Ðoàn 6 Không Quân Sư Ðoàn 6 Không Quân được thành lập vào tháng 6-1972 tại Pleiku, về sau, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Ðoàn II phải triệt thoái khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975, phải di chuyển về Phan Rang. Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Phạm Ngọc Sang, về sau, vào ngày 1-4-1974, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Sang tốt nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Văn Duyệt) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức (tháng 6-1952) vơi cấp bậc Thiếu Úy. Tháng 10-1952, ông trúng tuyển vào KQ, được gởi sang Pháp và Maroc theo học các khóa hoa tiêu vận tải, và thăng cấp Trung Úy trong thời gian này. Ðầu năm 1955 ông về nước và tháng 10 thăng cấp Ðại Úy và giữ chức vụ Chỉ Huy Trường Phi Ðội liên lạc (tiền thân của Phi Ðoàn đặc vụ 314 sau này). Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 6 KQ, ông đã từng giữa các chức vụ: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang và Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 33 Chiến Thuật tại Tân Sơn Nhứt.47 Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Sư Ðoàn 6 Không Quân gồm có hai không đoàn là Không Ðoàn 72 Chiến Thuật và Không Ðoàn 82 Chiến Thuật. Không Ðoàn 72 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 72 Chiến Thuật Không Ðoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại Pleiku, với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Lê Bá Ðịnh và cuối cùng là Trung Tá Lê Văn Bút (trước là Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn trực thăng 229), gồm có các phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn quan sát 118, 2 Phi Ðoàn trực thăng 229 và 235, Phi Ðoàn khu trục 530, và Biệt Ðội tải thương 259B, với các vị chỉ huy, danh hiệu và huy hiệu như sau:
Không Ðoàn 82 Chiến Thuật Huy hiệu Không Ðoàn 82 Chiến Thuật Không Ðoàn 82 Chiến Thuật, đồn trú tại Căn Cứ KQ Phù Cát (Bình Ðịnh), với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Nguyễn Văn Trương, gồm có các phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn 241 với trực thăng CH-47 Chinook, Phi Ðoàn 243 với trực thăng UH-1, Phi Ðoàn 532 với khu trục phản lực cơ A-37, và Biệt Ðội tải thương 259A với trực thăng UH-1, với các vị chỉ huy, hanh hiệu và huy hiệu như sau:
Trong 6 vị tướng Sư Ðoàn Trưởng của 6 sư đoàn KQ VNCH, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang là vị tướng duy nhứt bị địch quân bắt làm tù binh ngay tại mặt trận ở Phan Rang vào ngày 16-4-1975, như lời kể lại sau đây của chính ông trong một bài viết về trận Phan Rang: 48 “… Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Tr/Tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Tr/Tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992….” Các Ðơn Vị Hỗ Trợ Ngoài các Không Ðoàn Chiến Thuật như đã trình bày trên đây, mỗi Sư Ðoàn KQ đều có một bộ chỉ huy (gọi là “Sư Ðoàn Bộ”) với đầy đủ các phòng ban tham mưu (Kế hoạch, An phi, Nhân viên, Tài Chánh, Chiến tranh Chính trị…) và một số Không Ðoàn phụ thuộc như sau:
Mỗi Không Ðoàn Bảo Trì & Tiếp Liệu sẽ có một số Liên Ðoàn về Bảo Trì, Tiếp Liệu và Vũ Khí Ðạn Dược. Mỗi Không Ðoàn Yểm Cứ sẽ có một số Liên Ðoàn Trợ lực và Phòng Thủ. Sơ đồ tổ chức của Sư Ðoàn 3 KQ được trình bày sau đây để minh họa cho cơ cấu tổ chức của một Sư Ðoàn KQ của VNCH: Sơ đồ tổ chức Sư Ðoàn 3 KQ VNCH (Nguồn: Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, tr. 165) Ngoài các đại đơn vị là 6 Sư Ðoàn KQ vừa trình bày bên trên, Không Lực VNCH còn có 3 đại đơn vị tương đương cấp sư đoàn nữa là: – Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân, đồn trú tại Căn Cứ Không Quân Biên Hòa, với Chỉ Huy Trưởng (từ đầu đến cuối) là Chuẩn Tướng Từ Văn Bê. – Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, tại Căn Cứ Không Quân Nha Trang, với Chỉ Huy Trưởng cuối cùng là Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh (Chuẩn Tướng Oánh cũng chính là vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trung Tâm khi người Pháp giao lại cho Không Quân VN vào ngày 1-7-1955, lúc ông còn mang cấp bậc Ðại Úy). – Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân, tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, với Chỉ Huy Trưởng sau cùng là Ðại Tá Vũ Văn Ước. Thay Lời Kết Không Quân là một quân chủng rất quan trọng của QLVNCH và đã tham gia chiến đấu rất tích cực cũng như đóng góp không ít xương máu trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho Miền Nam trong suốt 20 năm. Cùng với các quân chủng khác của QLVNCH, với viện trợ của Hoa Kỳ, KQ đã phát triển thành một lực lượng hùng hậu, đáng kể so với các nước trên thế giới. Rất tiếc, vào những năm tháng cuối của cuộc chiến, vì quân viện từ phía Hoa Kỳ bị cắt giảm nghiêm trọng, các Sư Ðoàn KQ đã không còn đủ khả năng yểm trợ tích cực cho các đơn vị của QLVNCH như trước nữa. Việc hy sinh vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến của một phi hành đoàn AC-119K của Phi Ðoàn 821 Tinh Long tại Tân Sơn Nhứt (29-4-1975) và việc bị địch quân bắt làm tù binh (trong khi ông có thừa phương tiện để thoát thân) của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 6 KQ tại Phan Rang (16-4-1975) là những điểm son tiêu biểu cho tinh thần cùng chiến đấu và cùng hy sinh với các lực lượng bạn của các chiến sĩ KQ VNCH. Ghi Chú:
Phụ Ðính Danh Sách Các Phi Ðoàn với Phiên Hiệu và Danh Hiệu
2. Các Phi Ðoàn Trực Thăng
3. Các Phi Ðoàn Ðặc Nhiệm
4. Các Phi Ðoàn Vận Tải
5. Các Phi Ðoàn Khu Trục
6. Các Phi Ðoàn Oanh Tạc
7. Các Phi Ðoàn Không Thám Ðiện Tử
8. Các Phi Ðoàn Yểm Trợ Hỏa Lực (hay Vận Tải Võ Trang, Gunship, hay Hỏa Long hay Cường Kích)
9. Các Phi Ðoàn Huấn Luyện
|