Khác biệt chủ yếu giữa hai giai đoạn của phong trào Cần Vương thể hiện ở nội dung về
Phong trào Cần Vương là một trong những phong trào nổi trội trong lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp do tính chất của phong trào và độ phát triển mạnh mẽ trong quân chúng nhân dân thời điểm bấy giờ. Do đó với nội dung dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về phong trào Cần Vương là Tính chất của phong trào Cần Vương là gì? Show Phong trào Cần Vương là gì?Cần Vương được hiểu là giúp vua, nó có ý nghĩa cho sự phò vua giúp nước. Thực chất phong trào Cần Vương là tập hợp hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra trên phạm vi cả nước từ năm 1885 đến năm 1896 với sự hưởng ứng từ chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Phong trào đã thu hút được sự tham gia của một số quan lại trong triều đình và văn thân, ngoài ra phong trào thu hút được đông đảo nhân dân thuộc tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Tuy nhiên lại có một hạn chế, tuy phong trào diễn ra sôi nỗi trên khắp cả nước nhưng lại mang tính chất riêng lẻ, màn tính địa phương mà không có sự liên kết với nhau. Về nguyên nhân bùng nổ phong trào Cần Vương thì là do vào năm 1884 thực dân Pháp xác lập ách thống trị đô hộ trên toàn bộ Việt Nam, dưới sự ủng hộ của quần chúng nhân dân mà phe chủ chiến của ta đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Vì vậy mà đến rạng sáng ngày 5/7/1885 cuộc phản cộng của ta dưới sự lãnh đạo của Tôn Thất Thuyết đã diễn ra. Tuy nhiên cuộc phản công đã thất bại, vua Hàm Nghi buộc phải chạy đến Quảng Trị sơ tán và tại đây ông đã ban chiếu Cần Vương lần đầu tiên. Đến ngày 20/9/1885 thì chiếu Cần Vương lần thứ hai đã được ban ra, từ đó làm bùng nổ mạnh mẽ cuộc kháng chiến Cần Vương. Tìm hiểu về chiếu Cần VươngVề cơ bản, nội dung của Chiếu Cần Vương tố cáo tội ác của thực dân xâm lược, đồng thời lên án tính bất hợp pháp của triều đình tay sai do thực dân Pháp lập lên, tố cáo sự phản bội của một số quan lại triều đình. Ngoài ra chiếu Cần Vương còn khẳng định quyết tâm kháng chiến của triều đình mà đứng đầu là vua Hàm Nghi, từ đó thôi thúc, kêu gọi và khích lệ các sĩ phu, văn thân cũng như nhân dân cả nước cùng tham gia kháng chiến giúp vua khôi phục quốc gia phong kiến độc lập. Từ đây có thể thấy chiếu Cần Vương đem lại những ý nghĩa nhất định trong lịch sử, là: – Chiếu Cần Vương kêu gọi toàn thể nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục lại nền độc lập, chế độ phong kiến; – Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân nước Nam, từ đó một phong trào vũ trang chống thực dân Pháp đã diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm. Diễn biến cơ bản của phong trào Cần VươngPhong trào Cần Vương được chia làm hai giai đoạn, tương ứng với hai lần ban Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, cụ thể như sau: – Giai đoạn 1 diễn ra từ năm 1885 đến năm 1888, đây là giai đoạn phong trào bùng lên trên khắp cả nước Hưởng ứng chiếu Cần Vương mà nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã hướng ứng thông qua việc tập hợp các nghĩa binh, xây dựng căn cứ kháng chiến. Họ cùng nhau đấu tranh mạnh mẽ với tinh thần đầy quyết liệt trước thực dân Pháp và đông đảo bè lũ tay sai khắp các tỉnh Bắc bộ và Trung bộ Có thể kể đến một số cái tên điển hình của giải đoạn này như Phan Đình Phùng, Phạm Bành, Mai Xuân Trường… Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như khởi nghĩa Cai Kinh ở Bắc Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đông Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi nghĩa Tạ Hiện, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành… Ở khu vực Trung Kì thì nổi bật với khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân, khởi nghĩa của Trần Quang Dự, Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm, khởi nghĩa của Lê Trung Đình… Đến cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi đã bị bắt và bị đày đi Angieri, giai đoạn thứ nhất của khởi nghĩa Cần Vương kết thúc. Có thể thấy, phong trào Cần Vương trong giai đoạn này chủ yếu là các cuộc kháng chiến nhỏ lẻ, diễn ra lẻ tẻ, chỉ dừng lại ở trong một phạm vi nhất định mà chưa có sự liên kết trên phạm vi cả nước. – Giai đoạn hai của phong trào Cần Vương diễn ra từ năm 1888 đến năm 1896, đây là giai đoạn của các cuộc khởi nghĩa lớn. Mặc dù bị suy yếu từ cuối năm 1888, không có sự lãnh đạo của triều đình nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục diễn ra và quy tụ được nhiều văn thân sĩ phu yêu nước thì đã phát triển thành nhiều cuộc khởi nghĩa lớn với cơ cấu tổ chức cao hơn. Có thể kể để một số cuộc khởi nghĩa lớn như khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Hùng Lĩnh, khởi nghĩa Bãi Sậy… Đồng thời trong giai đoạn này nhiều cuộc khởi nghĩa xuất hiện, thực dân Pháp cũng tăng cường càn quét mạnh hơn, do để để duy trì và phát triển thì các nghĩa quân phải chuyển địa bàn hoạt động đến nhiều khu vực khác nhau, từ đồng bằng lê trung du và khu vực miền núi. Nhìn chung đặc điểm chung của cả 2 giai đoạn Phong trào Cần Vương vẫn là hoạt động riêng lẻ chứ không có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn, chính vì điều này mà dẫn đến thiếu sự lãnh đạo và tính liên kết. Do đó đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến phong trào Cần Vương thất bại vào năm 1896. – Phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX thực chất là một phong trào yêu nước của nhân dân chống Pháp giành độc lập cho đất nước là bởi vì nó là đã tiếp lối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, không phải từ khi bắt đầu có chiếu Cần Vương mà đã được chuẩn bị ngay sau khi triều đình Huế kí Hiệp ước Quý Mùi (1883). Đáp lại việc kí hiệp ước đầu hàng, phong trào kháng chiến của nhân dân bùng nổ khắp nơi. Sự phân hóa trong giới quan lại của triều đình đã dẫn đến cuộc tấn công quân Pháp ở kinh thành Huế và ngay sau đó, khi có chiếu Cần Vương, phong trào hưởng ứng chủ trương Cần Vương cứu nước diễn ra sôi nổi từ 1885 – 1 896. – Mục đích của phong trào Cần Vương là đánh đuổi quân xâm lược Pháp để khôi phục nhà nước phong kiến đã sụp đổ, nhưng mục đích lớn nhất trước mắt là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của cả dân tộc. – Chính mục đích này đã chi phối nên sau khi vua Hàm Nghi bị bắt, từ 1888 – 1896 không cò sự chỉ đạo của triều đình nhưng phong trào vẫn tiếp tục phát triển quyết liệt. – Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa không phải là các võ quan triều đình mà chủ yếu là các văn thân sĩ phu yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. – Lực lượng tham gia kháng chiến chủ yếu là các văn thân, sĩ phu, nông dân yêu nước. Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Tính chất của phong trào Cần Vương là gì? Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ đến chúng tôi để được hỗ trợ trực tiếp. Phong trào Cần Vương (Chữ Nôm: 風潮勤王) nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ Tại triều đình Huế, sau khi vua Tự Đức mất (tháng 7 năm 1883) thì sự phân hóa trong nội bộ đình thần, quan lại nhà Nguyễn càng sâu sắc, triều đình phân hóa thành 2 phe rõ rệt – phe chủ chiến và phe chủ hòa. Phe chủ chiến kiên quyết không khuất phục thực dân Pháp, muốn cứu lấy sự tồn tại của đất nước, của triều đình. Còn phe chủ hòa sẵn sàng quy thuận và hợp tác với Pháp để bảo vệ quyền lợi giai cấp. Đứng đầu phe chủ chiến là Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết là Thượng thư Bộ binh, nắm giữ quân đội trong tay và là nhân vật quan trọng nhất trong Hội đồng phụ chính. Ngoài ra, Tôn Thất Thuyết còn có liên hệ mật thiết với nhiều thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp. Tôn Thất Thuyết quyết tâm xây dựng, củng cố lực lượng để quyết chiến với thực dân Pháp. Ông cho thành lập một hệ thống sơn phòng từ Quảng Trị đến Ninh Bình và từ Quảng Nam đến Bình Thuận; chiêu mộ thêm nghĩa binh, tăng cường xây dựng đồn lũy. Tại Huế, ông cho củng cố quân đội và lập thêm 2 đạo quân đặc biệt – Phấn Nghĩa quân và Đoàn Kiệt quân. Đây là đội quân cơ động, tinh nhuệ trong các cuộc đối đầu với Pháp và bảo vệ vua cùng Hội đồng phụ chính.
Ngày 31 tháng 7 năm 1884, Tôn Thất Thuyết cho phế truất vua Kiến Phúc – một ông vua có tư tưởng thân Pháp – và đưa Ưng Lịch mới 14 tuổi lên ngôi, lấy hiệu là Hàm Nghi.
Cuối năm 1884, giữa lúc quân Pháp đang khốn đốn ở Bắc Kỳ, phe chủ chiến ở Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại Pháp cho tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn tên.
Tôn Thất Thuyết huy động số quân còn lại ở các địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản công. Dò biết tình hình, ngày 27 tháng 6 năm 1885, De Courcy (tổng chỉ huy vừa được cử sang) đem 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào thẳng Huế nhằm loại trừ phe chủ chiến, dự định bắt cóc Tôn Thất Thuyết.
Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Thuận An rồi lên Huế, yêu cầu Hội đồng phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân sĩ, đào hào đắp lũy trong thành, bố trí hai đạo quân đặc biệt phòng thủ hoàng thành, nhằm giành thế chủ động trước khi De Courcy bày đặt việc triều yết vua Hàm Nghi để đột nhập hoàng thành.
Đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, giữa lúc De Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia sông Hương và bàn kế đột nhập kinh thành Huế thì Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất (do Tôn Thất Lệ chỉ huy) có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh thứ hai (do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy) sẽ đánh úp tiêu diệt toàn bộ lính Pháp ở đồn Mang Cá.
Biết trước âm mưu của giặc nên mặc dù việc chuẩn bị chưa thật đầy đủ, Tôn Thất Thuyết vẫn nổ súng trước nhằm giành thế chủ động cho cuộc tấn công. Đúng 1 giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong cảnh khuya vắng lặng của kinh thành Huế, bỗng có tiếng súng thần công nổ rầm trời. Lệnh phát hỏa vừa dứt, đồn Mang Cá bốc cháy, quân ta đột nhập đồn, lính Pháp rối loạn, vài sĩ quan bị thương, bị chết. Đồng thời sứ quán Pháp bên kia sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính địch bốc cháy dữ dội. De Courcy đối phó cầm chừng, chờ sáng. Trại Mang Cá, lợi dụng quân Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng, vượt qua các ổ phục kích lọt được vào hoàng thành.
Quân Pháp đã trắng trợn cướp bóc của cải và tàn sát vô cùng dã man nhiều người dân vô tội trên đường tiến quân. Trong ngày hôm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị giết. Do vậy từ đó về sau, hằng năm Nhân dân Huế đã lấy ngày 23 tháng 5 Âm lịch làm ngày giỗ chung.
Không chỉ hàng vạn người bị giết hại mà kinh thành Huế còn bị cướp đi phần lớn những tài sản quý báu nhất. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp.[1] Linh mục Père Siefert Khanhngu, nhân chứng sự kiện này đã ghi lại: “Kho tàng trong hoàng cung đã mất đi gần 24 triệu quan vàng và bạc… Cuộc cướp cạn ấy kéo dài trong 2 tháng còn gây tai tiếng hơn cuộc cướp phá Cung điện Mùa Hè của Thanh Đế ở Bắc Kinh”. Cũng theo Père Siefert, khi đối chiếu với bảng kiểm kê tài sản của hoàng gia, thì quân Pháp đã cướp “228 viên kim cương, 266 món nữ trang có nạm kim cương, hạt trai, hạt ngọc, 271 đồ bằng vàng trong cung của bà Từ Dụ. Tại các tôn miếu thờ các vua… thì hầu hết các thứ có thể mang đi… đều bị cướp”[2] Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: riêng tại Phủ Nội vụ ở tầng dưới cất giữ 91.424 thỏi bạc đỉnh 10 lạng, 78.960 thỏi bạc đỉnh 1 lạng; tầng trên cất giữ khoảng 500 lạng vàng, khoảng 700.000 lạng bạc; kho gần cửa Thọ Chỉ cất giữ 898 lạng vàng, 3.400 lạng bạc. Toàn bộ số vàng bạc này đã bị Pháp chiếm. Tướng De Courcy, chỉ huy cuộc tấn công vào kinh đô Huế, ngày 24/7/1885 đã gửi cho chính phủ Pháp một bức điện với nội dung sau: “Trị giá phỏng chừng các quý vật bằng vàng hay bằng bạc dấu kỹ trong các hầm kín là 9 triệu quan. Đã khám phá thêm nhiều ấn tín và kim sách đáng giá bạc triệu. Xúc tiến rất khó khăn việc tập trung những kho tàng mỹ thuật. Cần cử sang đây một chiếc tàu cùng nhiều nhân viên thành thạo để mang về mọi thứ cùng với kho tàng”. Ngoài ra, trong quá trình quân Pháp truy đuổi Tôn Thất Thuyết từ tháng 7/1885, đã thu giữ ở tỉnh Quảng Trị 34 hòm bạc chứa 36.557 tiền bạc và 6 hòm bạc chứa 196 thỏi bạc, mỗi thỏi 10 lạng và 18.696 tiền bạc[2].
Vua Hàm Nghi ra chiếu Cần VươngSáng mùng 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng đời kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ở Quảng Trị một thời gian, để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại đây, Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885. Hai tờ chiếu này tập trung tố cáo âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, đồng thời kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước. Mặc dù diễn ra dưới danh nghĩa Cần Vương, thực tế đây là một phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược của Nhân dân Việt Nam. Trong thời kì này, hoàn toàn vắng mặt sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần Vương không phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kỳ đầu chống Pháp, mà là các sĩ phu văn thân yêu nước có chung một nỗi đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sự biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm 1885 và phát triển qua hai giai đoạn:
Cần vương mang nghĩa "giúp vua". Trong lịch sử Việt Nam, trước thời nhà Nguyễn từng có những lực lượng nhân danh giúp nhà vua phát sinh như thời Lê sơ, các cánh quân hưởng ứng lời kêu gọi của vua Lê Chiêu Tông chống lại quyền thần Mạc Đăng Dung. Tuy nhiên, phong trào này không để lại nhiều dấu ấn và khi nhắc tới Cần Vương thường được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược. Phong trào thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ năm 1885 cho đến năm 1896. Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục nền độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi. Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp:
Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc mọi người đang ngủ say. Bắt được vua Hàm Nghi thực dân Pháp ra sức dụ dỗ thuyết phục, mua chuộc nhà vua trẻ cộng tác với chúng nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Không mua chuộc được vua Hàm Nghi thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Từ cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt. Tác giả Nguyễn Thế Anh trong sách Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn nêu các nguyên nhân thất bại của phong trào Cần Vương:
Theo Đào Duy Anh, ngoài việc thiếu liên kết và thống nhất về tổ chức (tương tự như "tính chất địa phương" mà Nguyễn Thế Anh phản ánh), phong trào Cần Vương còn có những nguyên nhân thất bại khác[6]:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Phong_trào_Cần_Vương&oldid=68588093” |