Muốn có con người đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta phải làm thế nào
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI - YẾU TỐ CƠ BẢN ĐẢM BẢO CHO SỰ PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày đăng
:
12/05/2021
Xem với cỡ chữ
Bản in
Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Trong các văn kiện các Đại hội của Đảng đã khẳng định: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững”. Các quan điểm trên đặt ra cho vấn đề phát triển nguồn lực con người ở nước ta những nhiệm vụ to lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực cơ bản, có tính quyết định đối với việc nâng cao chất lượng con người như: Giáo dục và đào tạo,chăm sóc sức khỏe, dân số và môi trường sống của con người. Phát triển giáo dục và đào tạo - nhiệm vụ chủ yếu để phát triển nguồn lực con người. Show
Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con người. Nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người. Giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững, vì lợi ích hiện tại và vì tương lai của đất nước, của dân tộc. Ở nước ta, truyền thống hiếu học, trọng hiền tài, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước. Đến Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về “trồng người” vì “lợi ích trăm năm” của dân tộc đã được Đảng ta nhận thức, quán triệt sâu sắc. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, đặc biệt, văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác đinh giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục và đào tạo được coi là con đường cơ bản để phát triển nguồn lực con người, tăng cường năng lực nội sinh để công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công. Mặt khác, để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với việc phát triển giáo dục và đào tạo, Nhà nước ta rất quan tâm đến các vấn đề y tế, chăm sóc sức khỏe, vấn đề dân số và nâng cao chất lượng dân số.... những năm qua đã đem lại những kết quả thiết thực, nâng cao một bước chất lượng dân số nước ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể lực cho người lao động vẫn là vấn đề cấp thiết, vừa cơ bản, vừa lâu dài với hướng ưu tiên và quan tâm hàng đầu là chăm sóc sức khỏe trẻ em. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển toàn diện người lao động, là sự chuẩn bị cần thiết nguồn lực con người cho những bước phát triển tiếp theo. Ngoài ra, cần chú ý các chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực khác nhau, đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân, trong đó đầu tư của Nhà nước phải giữ vai trò chính.... Bên cạnh chính sách về y tế, cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số vì đây cũng đang là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của con người. Hiện tỷ lệ tăng dân số ở Việt Nam còn khá cao, có thể dẫn đến làm triệt tiêu những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, làm gay gắt thêm những vấn đề xã hội và là vật cản đối với việc cải thiện chất lượng dân số. Kinh nghiệm cho thấy, những người có mức sống khá và trình độ học vấn cao trong xã hội thường không có nhu cầu sinh nhiều con mà quan tâm nhiều hơn đến chất lượng sống. Vì vậy, trong chính sách dân số cần chú ý kết hợp việc hạn chế số dân với việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số. Mặt khác, cần chú trọng đưa nội dung giáo dục, bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục quốc dân.Cùng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng nhiều mặt đến sự phát triển của con người về thể lực, chiều cao, trí tuệ, tâm sinh lý... Do đó, cần quan tâm xây dựng một cơ chế mới bảo đảm thực hiện giải phóng người lao động về mọi mặt để phát huy tối đa sức mạnh của trí tuệ, tài năng, phẩm giá con người. Cũng cần nhận thức rõ rằng, sức khỏe của con người không chỉ là thể lực mà còn là sức khỏe tinh thần, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng được một chiến lược tổng thể đảm bảo sự trong sạch của các loại môi trường để con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Từ đó cho thấy, để phát triển nguồn lực con người, toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành cần đặc biệt coi trọng các nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống của con người. Trong điều kiện ngày nay, nguồn lực con người là yếu tố nội sinh quan trọng nhất quyết định sự phát triển của một đất nước. Hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm chăm lo hơn nữa vấn đề phát triển toàn diện con người, đồng thời phải có những chính sách thể hiện sự quan tâm đặc biệt và khai thác tốt nhất tiềm năng trí tuệ của đội ngũ lao động chất xám để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hải Đăng
Lê Thùy Trang
Lần xem:
49741
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tếTS. Đặng Xuân Hoan 14:59 20/04/2015(Tài chính) Trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu: Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực;… Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động)(*), một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp. Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế, do quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những ngành, nghề mới,… Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất nước. Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu: Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng ngày càng lớn. Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề ra các giải pháp gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực. Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu và khu vực. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi). Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế. Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%). Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người. Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế. Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như: Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó. Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia. Nguyên nhân của những hạn chế có nhiều, cần được phân tích kỹ và đầy đủ để rút kinh nghiệm, trong đó theo chúng tôi, đáng chú ý là: Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực. Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ. Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng… Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2015-2020 Một là, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực. Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập. Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ. Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..). Ba là, đổi mới giáo dục và đào tạo Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập trung vào một số nội dung sau đây: - Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học. - Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học. - Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết quả đầu ra của giáo dục và đào tạo. Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các trường sư phạm trên phạm vi cả nước. Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện. Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước. Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam. Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.Theo tapchicongsan.org.vn In bài viết
Tags
kinh doanh lao động tập đoàn tài chính tăng trưởng áp dụng điều chỉnh kinh tế
THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM
Tin nổi bậtGiá cả thị trường bình ổn, không hiếm hàng, khan giá
02/02/2022
Thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những ngày đầu, tháng đầu năm 2022
02/02/2022
Cùng nhìn lại chính sách tài chính nổi bật có hiệu lực trong tháng 1/2022
02/02/2022
Bộ Tài chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân sớm thụ hưởng chính sách miễn, giảm thuế
02/02/2022
Quản lý, điều hành giá linh hoạt, hiệu quả trong bối cảnh đại dịch COVID- 19
02/02/2022
Vai trò của thế hệ trẻ thực hiện chủ trương phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo(ĐCSVN) - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã tổng kết một số nội dung cơ bản nhất về thực tiễn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bài viết là sự tái khẳng định quyết tâm, định hướng và mục tiêu phát triển của Việt Nam, trong đó khẳng định xã hội mà chúng ta đang hướng tới cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường, đảm bảo gìn giữ các nguồn tài nguyên và môi trường sống cho các thế hệ hiện tại và tương lai cũng như nói không với việc tiêu dùng tài nguyên vô hạn. “Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng với nội dung rất rộng lớn, đòi hỏi nghiên cứu nghiêm túc, công phu. Do đó, chuyên đề này có mục tiêu làm rõ hơn vai trò và nhiệm vụ của thế hệ trẻ để hiện thực hóa các mục tiêu về phát triển được xác định trong bài viết của đồng chí Tổng bí thư.
1.Một số điểm mới của chủ trương phát triển kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo Để thực hiện được mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững, một trong những giải pháp đã được đồng chí Tổng Bí thư đặt ra là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức đồng thời coi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để tập trung đầu tư, phát triển. Trên thực tế, tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đề xuất đột phá chiến lược“Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới; hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo”. Vì vậy, việc triển khai thực hiện các giải pháp và nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách này sẽ đòi hỏi sự đồng lòng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó thế hệ trẻ sẽ đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là ở nhiệm vụ phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chuyên đề này có mục tiêu làm rõ hơn vai trò và nhiệm vụ của thế hệ trẻ để hiện thực hóa các mục tiêu về phát triển được xác định trong bài viết của Tổng Bí thư. Chuyên đề gồm 2 phần: phần 1 phân tích mối quan hệ giữa thế hệ trẻ và một nền kinh tế sốdựa trên kinh nghiệm quốc tế; phần 2 đánh giá cơ hộicủa thế hệ trẻ Việt Nam trong nền kinh tế số dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, và đưa ra một số khuyến nghị. 2.Thế hệ trẻ và nền kinh tế số, kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang mang lại nhiều sự thay đổi cơ bản về kinh tế, xã hội trên toàn cầu. Sự bùng nổ và phổ biến của internet và các công nghệ kỹ thuật số đã mang lại nhiều cơ hội cho giới trẻ để tham gia và kết nối vào thị trường kinh tế số, nơi mà các rào cản của thị trường là nhỏ hơn, với rất nhiều cơ hội để tiếp cận và chia sẻ thông tin, kiến thức với các cộng đồng có chung lợi ích và mang lại hợp tác trong các dự án sản xuất cùng nhau(1). Một số nghiên cứu đã thể hiện sự phong phú và đa dạng của các cơ hội cho giới trẻ khi tham gia và tương tác với nền kinh tế số, bao gồm các nội dung số, các nền tảng số cũng như các dịch vụ số (2). Một số hình thức việc làm mới xuất hiện đã bổ sung cho các hình thức sáng tạo nội dung truyền thống, có thể kể ra một số cơ hội việc làm của giới trẻ trong nền kinh tế số là: Video blog: Đây là một trong những cơ hội phổ biến nhất, tận dụng sự phổ cập của internet, toàn cầu hóa cũng các nền tảng số toàn cầu như Youtube, Instagram, Facebook, giới trẻ với kiến thức về công nghệ và kỹ năng sáng tạo có thể thông qua đó xây dựng hình ảnh, thương hiệu và nội dung để tiếp cận một số lượng lớn khán giả, khách hàng và đối tác. Các nội dung có thể đa dạng từ lối sống (du lịch, ẩm thực, gia đình) đến sức khỏe, làm đẹp, hay mang tính đặc thù hơn như hướng dẫn đầu tư, chơi game…Thông qua việc tiếp cận hàng nghìn và thậm chí là hàng triệu khán giả và người theo dõi, thế hệ trẻ đã và đang thông qua các nền tảng toàn cầu này thực hiện việc quảng cáo cho một bên thứ ba, hoặc hợp tác với các công ty để tạo ra các nội dung đặc thù, từ đó tạo ra giá trị và thu nhập cho xã hội. Viết blog: Hìnhthức này đã phổ biến với giới trẻ từ lâu thông qua các nền tảng toàn cầu như Tumblr, tuy nhiên gần đây nó có sự thay đổi để phù hợp với xu hướng công nghệ khi thường đi kèm với cả hệ sinh thái truyền thông bao gồm Youtube, Instangram, Facebook. Chủ đề thông dụng thường là thời trang,ẩm thực, du lịch, khi những người viết cố gắng tạo ra một lượng người đọc có chung một sở thích hẹp với họ, qua đó dẫn dắt xu hướng, mở rộng sự kết nối với lượng người đọc này. Giới trẻ có thể kiếm tiền thông qua quảng cáo, hoặc tiền tài trợ từ các thương hiệu muốn hợp tác với những người dẫn dắt xu hướng này. Nhiếp ảnh, nghệ thuật, thiết kế: Các nền tảng số toàn cầu đã tạo điều kiện cho giới trẻ đam mê và khao khát nghệ thuật có thể đóng góp cho việc sáng tạo các nội dung nghệ thuật trên các nền tảng này. Họ có thể đăng các ảnh chụp, thiết kế, phản ánh các đam mê và sự sáng tạo của mình lên mạng xã hội, thông qua đó xây dựng một lượng khán giả và những người theo dõi. Các đối tác kinh doanh như doanh nghiệp hay người dùng cũng có thể thông qua các nền tảng này để cùng hợp tác để tạo ra giá trị. Âm nhạc: Lĩnh vực sáng tạo này đã chứng kiến nhiều nghệ sĩ trẻ giới thiệu âm nhạc của mình đến công chúng nhanh chóng và thành công thông qua các nền tảng toàn cầu như Youtube hay SoundCloud. Thế hệ trẻ còn có thể thông qua nền kinh tế số và các công cụ số để tìm kiếm các cơ hội trong việc phân phối, trình diễn các sản phẩm của mình, thậm chí họ còn có thể kêu gọi đầu tư và tài trợ để sản xuất các sản phẩm âm nhạc. Trò chơi điện tử: Một bộ phận thế hệ trẻ với đầy đủ sự đào tạo và giáo dục về công nghệ và kỹ năng còn có thể tham gia vào nền kinh tế số thông qua các trò chơi điện tử. Các nền tảng trò chơi trực tuyến cho số đông (MMOGs) như Roblox đã và đang cung cấp những thế giới ảo cho rất nhiều người chơi trực tuyến công cụ và địa điểm để họ tự thiết kế, tạo ra nội dung và thương mại hóa các trò chơi của mình. Cơ hội còn đến từ việc thay đổi cấu trúc trò chơi (modding), phát triển và sáng tạo các trò chơi thương mại hiện tại để bán cho người tiêu dùng, từ đó xây dựng kỹ năng và thương hiệu của bản thân để trở thành các nhà thiết kế trò chơi chuyên nghiệp, khi đó học có thể hợp tác với các công ty chuyên nghiệp trong lĩnh vực trò chơi điện tử. Kinh doanh, khởi nghiệp: Thế giới có thể được thay đổi bởi một ý tưởng, thế hệ trẻ đã chứng minh điều này là khả thi, sự thành công của những công ty khởi nghiệp sáng tạo như Facebook là bằng chứng rõ ràng. Nền kinh tế số và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang đang mang đến các cơ hội để thế hệ trẻ khởi nghiệp bằng cách giải quyết các vấn đề của xã hội phát sinh trong quá trình phát triển thông qua việc kết hợp các kỹ năng và tận dụng các nguồn lực sẵn có và mọi lợi thế của công nghệ. Ở một mặt khác, việc tham gia và tận dụng nền kinh tế số cũng đang tồn tại nhiều thách thức và khó khăn cho thế hệ trẻ(3), đặc biệt là việc chuyển đổi số sẽ làm gia tăng các bất bình đẳng hiện hữu trong xã hội (4). Sự ngăn cách và bất bình đẳngkỹ thuật số được phân chia thành 3 lớp, theo thứ tự từ 1 đến 3 (1) bao gồm: sự tiếp cận không đồng đều với công nghệ; sự phát triển không bình đẳng các kỹ năng cần thiết để thành công trong nền kinh tế số; sự phân phối không công bằng các lợi ích từ việc sử dụng công nghệ dựa trên các yếu tố về kinh tế xã hội (5). Sự tiếp cận đối với internet là rào cản thứ nhất, tỉ lệ dân số được tiếp cận với mạng internet có sự khác nhau rất lớn tùy theo vào khu vực địa lý. Trong khi tại các quốc gia phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ, tỉ lệ người dân được tiếp cận với internet là rất cao, lần lượt là 91% tại EU-27 quốc gia và 90.8% tại Bắc Mỹ(6), tuy nhiên hơn một nửa dân số trên thế giới vẫn chưa được tiếp cận với mạng internet, chủ yếu là người dân sống ở châu Phi và khu vực châu Á Thái Bình Dương(7). Ngoài ra, còn có sự chênh lệch trong tiếp cận internet và chất lượng mạng internet giữa các khu vực nông thôn và thành thị trong cùng một quốc gia hay khu vực. Ở cấp độ thứ 2, các rào cản trong nền kinh tế số đối với thế hệ trẻ đến từ việc thiếu các kỹ năng để thành công khi làm việc trực tuyến và mức độ thành thạo của kỹ năng này không phải có được ngẫu nhiên giữa tất cả các người dùng mà được quyết định bởi nhiều yếu tố trong đó có xuất thân, hoàn cảnh, giới tính và giáo dục (8). Lấy ví dụ, một người có ảnh hưởng thành công trên mạng xã hội sẽ cần kết hợp rất nhiều kỹ năng bao gồm thiết kế, sáng tạo cũng như làm chủ các thuật toán để tối ưu hóa số lượng người ảnh hưởng. Việc có một trình độ giáo dục cơ bản, cũng như điều kiện để tiếp cận các nguồn lực và cơ sở hạ tầng khác (như tiền bạc, quan hệ cá nhân) sẽ làm gia tăng khả năng thành công. Ở một trường hợp tương tự nhưng nếu thiếu các yếu tố về hạ tầng, nguồn lực sẽ khó đạt cùng hiệu quả (1). Ở cấp độ cuối cùng, có sự phân hóa về lợi ích khi tham gia thị trường kinh tế số giữa các cá nhân với điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Trong đó các cá nhân có điều kiện kinh tế xã hội tốt hơn sẽ có nhiều lợi ích hơn (9). Ngoài ra các yếu tố quyết định điều này còn bao gồm chủng tộc và giới tính của người sử dụng khi tham gia vào kinh tế số: thế hệ trẻ tại các quốc gia thu nhập thấp sử dụng internet ít hơn các quốc gia thu nhập cao và ít được hưởng lợi từ kinh tế số hơn. Ngoài ra, ở một số quốc gia có thu nhập thấp có hiện tượng nam giới sử dụng internet nhiều hơn nữ giới và sự chênh lệch này có chiều hướng gia tăng (1). Ngoài các rào cản và thách thức trên, nền kinh tế số còn mang tới nhiều vấn đề khác cần phải cân nhắc đối với thế hệ trẻ khi tham gia. Một trong những vấn đề lớn nhất là nhận thức của thế hệ trẻ về mối quan hệ với các nền tảng toàn cầu đang được sử dụng, đặc biệt khi một số lượng lớn các nền tảng này (ví dụ như Facebook, Instagram, Youtube…) kiếm doanh thu từ quảng cáo và việc sử dụng số lượng lớn dữ liệu cá nhân người dùng. Người dùng trẻ và dữ liệu cá nhân của họ đã bị sử dụng để bán cho các nhà quảng cáo để cải thiện hiệu quả và dịch vụ của họ (10). Tuy nhiên, thực tế hiện nay rất nhiều người trẻ chưa ý thức được đầy đủ mức độ mà dữ liệu cá nhân của họ đã và đang bị sử dụng bởi các nền tảng này cũng như quá quan tâm về các chiến lược quảng cáo và marketing được hình thành dựa trên dữ liệu cá nhân của họ (2). Cuối cùng, việc các nền tảng này được hưởng lợi rất nhiều từ sự tham gia và dữ liệu cá nhân của người trẻ, tuy nhiên lợi ích và lợi nhuận từ các hoạt động này chưa được chia sẻ một cách công bằng. Một số học giả còn cho rằng đây là một dạng bóc lột thương mại từ các nền tảng này và nhiều người dùng chưa ý thức được việc hành động và dữ liệu của họ là động lực trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế số (11). Vấn đề sở hữu trí tuệ cũng là một thách thức lớn trong nền kinh tế số, thế hệ trẻ nếu không được trang bị kiến thức và kĩ năng sẽ có nguy cơ vi phạm các pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ, đồng thời không bảo vệ được tài sản trí tuệ của mình và bị xâm phạm đến lợi ích chính đáng của bản thân(12). Cuối cùng, các nền tảng toàn cầu này lại là một kênh thông tin thuận lợi cho việc truyền bá các luồng thông tin xấu, độc hại, giới trẻ khi tiếp xúc trực tiếp với các luồng thông tin này sẽ có nguy cơ bị ảnh hưởng về nhận thức, hành động. Đặc biệt việc các thế lực thù địch có thể lợi dụng công cụ này, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, thổi phồng các vấn đề kinh tế xã hội trong nước để kích động diễn biến hòa bình hay âm mưu cách mạng màu, bài học của “mùa xuân Ả rập” vẫn còn nguyên tính chất thời sự (13). 3.Vai trò của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế số dựa trên đổi mới sáng tạo Theo thống kê năm 2020, thanh niên Việt Nam từ 16 - 30 tuổi có khoảng 22,609 triệu người, chiếm khoảng 23,2% dân số cả nước (14). Vai trò của lực lượng này đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, cụ thể nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát huy thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”. Việc được Đảng và nhà nước tạo mọi điều kiện ổn định để phát triển, học tập và rèn luyện là cơ hội tốt để thanh niên Việt Nam chuẩn bị và tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tận dụng tốt cơ hội từ nền kinh tế số dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Như đã phân tích ở trên, thanh niên Việt Nam cũng như thanh niên trên thế giới đang đứng trước một sự chuyển đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ và điều kiện kinh tế xã hội. Để có thể thành công tận dụng các cơ hội của kinh tế số cũng như khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, qua đó góp phần thực hiện thành công Nghị quyết đại hội XIII của Đảng cũng như mục tiêu đề ra trong bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, thanh niên Việt Nam cần nhận thức một cách đầy đủ về cơ hội thách thức, điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế số cũng như đặc điểm của Việt Nam và bản thân, từ đó có các kế hoạch và hành động phù hợp. Bài viết này đưa ra một số suy nghĩ cá nhân mang tính khuyến nghị giải pháp như sau: Một là, thanh niên Việt Nam cần được định hướng trong lựa chọn nghề nghiệp, học tập phù hợp với năng lực và sở trường để tránh tình trạng làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo, gây lãng phí về thời gian và nguồn lực của xã hội. Thanh niên có đam mê và yêu thích các lĩnh vực công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhà nước ưu tiên phát triển như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật, thực tế ảo/thực tế tăng cường, chuỗi khối, in ba chiều hay các lĩnh vực về khoa học-công nghệ-kỹ thuật-toán học, kinh doanh, doanh nghiệp (STEAM) cần nghiêm túc tìm hiểu, xác định ngành nghề và kiên trì theo đuổi để đóng góp cho sự phát triển của nước nhà. Ngoài ra cần mạnh dạn kiến nghị, đề xuất với Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư để giải phóng năng lực tuổi trẻ, cống hiến, vì sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc nhờ vào phát triển kinh tế số và khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo. Hai là,thanh niên Việt Nam cần liên tục cập nhật, trang bị kiến thức và hiểu biết về cách thức vận hành, luật lệ của nền kinh tế số (ví dụ như các vấn đề liên quan đến mối quan hệ khách hàng-nhà cung cấp với các nền tảng toàn cầu), sở hữu trí tuệ, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, ngoài ra tránh việc vô ý vi phạm pháp luật do thiếu kiến thức, đặc biệt khi có sự khác biệt về pháp luật giữa quốc gia nơi mà nhà cung cấp dịch vụ ở và quốc gia nơi mà người dùng sử dụng dịch vụ. Ba là,trong một môi trường đầy biến động và đa chiều của nền kinh tế số, thanh niên Việt Nam cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tự trang bị cho mình kiến thức để có “vắc xin” với các luồng thông tin độc hại, chưa rõ tính xác thực, tránh bị lôi kéo, dụ dỗ mắc phải những sai phạm về đạo đức, tiêu cực và tệ nạn xã hội, hoặc bị lợi dụng, kích động lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm pháp luật. Đặc biệt cần cảnh giác trước nhiều luồng thông tin xấu của các thế lực thù địch, lợi dụng các vấn đề kinh tế xã hội trong nước kích động lôi kéo, lợi dụng tinh thần yêu nước của người dân để tiến hành các hoạt động chống phá, âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình và cách mạng màu tại Việt Nam. Bốn là, tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng với vai trò hạt nhân chính trị quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, cổ vũ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, lao động sáng tạo trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm góp phần tạo nên những thành tựu mới to lớn và có ý nghĩa cho nước nhà như lời Bác dạy “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. 4. Tài liệu tham khảo 1. Lombana-Bermudez A, Cortesi SC, Fieseler C, Gasser U, Hasse A, Newlands G, et al. Youth and the Digital Economy: Exploring Youth Practices, Motivations, Skills, Pathways, and Value Creation. SSRN Electron J. 2020; 2. Palfrey, J., & Gasser U. Born digital: How children grow up in a digital age. New York, NY: Basic Books; 2016. 3. Jenkins H. Confronting the Challenges of Participatory Culture. Confronting Challenges Particip Cult. 2018 Dec 14; 4. Warschauer M. Reconceptualizing the digital divide. firstmonday.org [Internet]. 2002 [cited 2021 Aug 8]; Available from: http://firstmonday.org/ojs/index.php/fm/article/view/967 5. Pearce KE, Rice RE. Somewhat separate and unequal: Digital divides, social networking sites, and capital-enhancing activities. Soc Media Soc [Internet]. 2017 Jun 21 [cited 2021 Aug 8];3(2). Available from: https://journals.sagepub.com/doi/full/10.1177/2056305117716272 6. Statista. Internet usage in the United States - statistics & facts [Internet]. [cited 2021 Aug 8]. Available from: https://www.statista.com/topics/2237/internet-usage-in-the-united-states/ 7. Individuals using the Internet (% of population) | Data [Internet]. [cited 2021 Aug 8]. Available from: https://data.worldbank.org/indicator/IT.NET.USER.ZS 8. Hargittai E. Digital Na(t)ives? Variation in Internet Skills and Uses among Members of the “Net Generation”*. Sociol Inq [Internet]. 2010 Feb 1 [cited 2021 Aug 8];80(1):92–113. Available from: https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1475-682X.2009.00317.x 9. van Deursen AJAM, Helsper EJ. The Third-Level Digital Divide: Who Benefits Most from Being Online? In Emerald Group Publishing Limited; 2015. p. 29–52. 10. Couldry N, Mejias UA. Data Colonialism: Rethinking Big Data’s Relation to the Contemporary Subject. Telev New Media [Internet]. 2019 Sep 2 [cited 2021 Aug 8];20(4):336–49. Available from: https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/1527476418796632 11. Posner, E., & Weyl G. Radical markets: Uprooting capitalism and democracy for a just society. Princeton, NJ: Princeton University Press; 2018. 12. Tuyengiao.vn. Sở hữu trí tuệ: Thách thức cho doanh nghiệp Việt | Tạp chí Tuyên giáo [Internet]. [cited 2021 Aug 9]. Available from: https://tuyengiao.vn/kinh-te/so-huu-tri-tue-thach-thuc-cho-doanh-nghiep-viet-53188 13. Qdnd.vn. Bài 5: Mạng xã hội, “điểm nóng” và cái giá hòa bình, độc lập [Internet]. [cited 2021 Aug 9]. Available from: https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/bai-5-mang-xa-hoi-diem-nong-va-cai-gia-hoa-binh-doc-lap-648127 14. General Statistics Office of Vietnam [Internet]. [cited 2021 Aug 8]. Available from: https://www.gso.gov.vn/en/homepage/ Lê Duy Anh BA (Dunelm) MPhi, PhD (Cantab)
Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội Phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo tư tưởng Hồ Chí Minh20/08/2021 NGUYỄN HỒNG ĐIỆP* Đặt vấn đề Nhân loại đang chứng kiến những thay đổi vượt bậc trong thời đại công nghệ số của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) và tầm ảnh hưởng sâu rộng của khoa học, công nghệ đếnđời sống con người. Bản chất của CMCN 4.0 chính là việc ứng dụng công nghệ, khoa học dữ liệu vàsử dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ sản xuất và cuộc sốngcon người. Nhìn chung, CMCN 4.0 đang có sự tác động sâu sắc đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở các quốc gia trên toàn thế giới như những gì Giáo sư Klaus Schwab - Người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã khẳng định: “Chúng ta đang đứng trước thềm một cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc, và liên hệ với nhau. Tôi cho là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này sẽ không giống với bất cứ điều gì nhân loại đã từng trải qua cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp của nó” (Klaus Schwab, 2016, tr. 1). Trong xu hướng chung đó, việc tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại, suy cho cùng phụ thuộc vào con người. Con người có đủ phẩm chất, năng lực sẽ phát huy được những lợi thế và khắc phục được những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại. Đối với nước ta, đó là những con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh không viết tác phẩm riêng bàn về con người, nhưng vấn đề con người là chủ đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người. Trong mọi suy nghĩ và hành động, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, con người là mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lí nhân sinh sâu sắc, là tinh thần, là phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người, đó là tư tưởng về phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là cơ sở lí luận và phương pháp luận khoa học phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam toàn diện Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là những luận điểm về mô hình và con đường phát triển con người Việt Nam toàn diện. Mô hình con người Việt Nam phát triển toàn diện được khái quát lên từ sự kế thừa, phát triển các chuẩn mực con người phương Đông trong lịch sử. Trong đó, chủ yếu và trực tiếp nhất, Hồ Chí Minh đã đứng trên các phạm trù triết học Nho giáo về triết lí nhân sinh, đạo đức và tri thức để làm người, cụ thể hóa thành các tiêu chí của con người Việt Nam. Mô hình đó được Hồ Chí Minh cụ thể bằng các tiêu chí về phẩm chất và năng lực: thể lực, trí tuệ, thẩm mĩ, đạo đức. Tuy nhiên, đây mới chỉ là mô hình, tiêu chí để Hồ Chí Minh có một quan niệm về phát triển con người Việt Nam toàn diện. Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh mới thực sự tìm thấy con đường để phát triển con người toàn diện. Đó chính là những nguyên lí duy vật lịch sử về bản chất con người của triết học Mác - Lênin. Những nguyên lí này là cơ sở lí luận và phương pháp khoa học nhằm phát triển con người toàn diện, mang lại cho con người những phẩm chất, năng lực mới để con người làm chủ ngày càng tốt hơn các quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, con đường phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh được nảy sinh, phát triển từ thực tiễn và lại được hệ thống lí luận cách mạng định hướng, soi đường. Chính điều này đã làm cho tư tưởng về phát triển con người của Hồ Chí Minh trở nên khoa học và có giá trị trong phát triển toàn diện con người Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, trước hết muốn phát triển con người Việt Nam toàn diện phải giải phóng họ khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng vô sản. Đây là công việc phải thực hiện đầu tiên, tạo điều kiện phát triển con người Việt Nam trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, dân ta một cổ hai tròng. Con người chỉ có điều kiện phát triển toàn diện khi họ được giải phóng. Vì vậy, nếu nước nhà không được độc lập thì không có tự do, có nghĩa là con người vẫn bị kìm kẹp trong ách áp bức nô lệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Muốn giải phóng con người, chúng ta phải tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện về vật chất và tinh thần để giải phóng con người về kinh tế, chính trị, xã hội - yếu tố quyết định cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 30). Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Người thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng và giành độc lập, tự do cho dân tộc: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 534). Tiến hành cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng dân tộc cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 64). Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là điều kiện để bảo đảm cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, bóc lột mà còn chính vì “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 60), chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tạo ra mọi điều kiện để con người được phát triển toàn diện năng lực của mình. Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện, họ phải tham gia vào hoạt động đấu tranh cách mạng, phải được tôi luyện và trưởng thành từ phong trào cách mạng. Khi họ tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ là môi trường quantrọng để thử thách, rèn luyện con người Việt Nam, thông qua đó họ được phát triển về mọi mặt. C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen, 1995, tập 3, tr. 11). Tiếp thu lí luận về bản chất con người của C.Mác, Hồ Chí Minh có cơ sở phương pháp luận khoa học để phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo đó, việc hình thành những năng lực bản chất người bao giờ cũng phải thông qua các quá trình xã hội hóa, tiếp thu kinh nghiệm, văn hóa vật chất và tinh thần của loài người, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội. Tham gia vào nhiều quan hệ xã hội, những quan hệ càng có tính khó khăn, phức tạp bao nhiêu, khi con người thích ứng được nó thì càng phát triển những phẩm chất, năng lực của mình bấy nhiêu - phát triển toàn diện bấy nhiêu. Vì vậy, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ mới là điều kiện hết sức quan trọng để con người Việt Nam trưởng thành về mọi mặt. Vì vậy, thông qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ là điều kiện để hàng triệu con người Việt Nam tôi luyện, trưởng thành về mọi mặt, làm cho năng lực nhận thức và hành động của họ không ngừng được nâng cao, tạo ra sự phát triển ngày càng phong phú, hài hòa về nhân cách của con người Việt Nam trong thời đại mới. Quá trình tham gia đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tác động sâu sắc đến việc hình thành những phẩm chất, năng lực mới của con người Việt Nam, góp phần quyết định tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt - những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Hồ Chí Minh còn khẳng định, phát triển con người toàn diện khi họ tham gia vào hoạt động lao động sản xuất. Khi bàn về vai trò của lao động với sự hình thành và phát triển con người, Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 20, tr. 641). Điều đó có nghĩa là, bằng lao động và thông qua lao động mà các cơ quan của cơ thể con người được phát triển hoàn thiện, đồng thời với đó là tư duy, ý thức, năng lực của con người cũng phát triển theo sự phát triển của quá trình lao động sản xuất. Tiếp thu quan điểm của các nhà lí luận mácxít, Hồ Chí Minh cho rằng, thông qua lao động sản xuất vật chất, trước hết sức khỏe, thể lực con người được nâng lên, không những làm cho con người “quen gian khổ” mà còn có ích cho sức khỏe của họ, “do lao động, sức khỏe tăng hơn” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 594). Không những thế, thông qua lao động mà con người biết quý trọng sức lao động và giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, biết tôn trọng những người lao động và từ đó biết tự làm lấy để sinh sống,... Người khẳng định vai trò của lao động sản xuất với sự phát triển toàn diện của con người: “Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen gian khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỉ lực” (làm lấy mà ăn) không ăn bám xã hội” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 121). Sự phát triển của nhận thức con người phát triển cùng với sự phát triển của lao động, Người viết: “Hoạt động sản xuất của xã hội phát triển từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, sự hiểu biết của người ta (về giới tự nhiên, cũng như về xã hội) cũng phát triển từng bước, từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ một mặt đến toàn diện” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121). Trong quá trình phát triển của lao động sản xuất ấy, giới tự nhiên dần bộc lộ ra những quy luật, những thuộc tính, những tri thức để con người hiểu biết sâu hơn về giới tự nhiên làm cho nhận thức của con người phát triển từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều,... Người viết: “Do sự sản xuất vật chất mà người ta hiểu biết dần dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan hệ giữa người này với người khác” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121). Như vậy, sự phát triển về tri thức và năng lực là thước đo đánh giá sự phát triển của con người, theo Người, thông qua lao động sản xuất, sức khỏe, lí tưởng cách mạng, ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình, cũng như tài năng của con người ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Khi tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, con người càng thấy giá trị của lao động, biết quý trọng những sản phẩm do những người lao động đổ mồ hôi, nước mắt làm ra, qua đó nâng cao ý thức cần, kiệm cho bản thân đồng thời biết trân trọng, yêu quý những người lao động chủ nhân của xã hội mới. Xây dựng và phát triển một nền giáo dục mới là con đường cơ bản để phát triển con người toàn diện. Giáo dục, đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người nói chung và toàn diện của con người nói riêng. Có thể nói đây là một trong những phương thức cơ bản nhất mà loài người đã sử dụng trong suốt mấy nghìn năm qua để đào tạo, phát triển nhiều thế hệ người, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong tiến trình phát triển của nhân loại. Là người thầy vĩ đại của dân tộc, Hồ Chí Minh có niềm tin vào sức mạnh của một nền giáo dục mới nhằm tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 413). Vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới nền giáo dục cũ và phải tiến hành giáo dục, đào tạo một cách khoa học và chu đáo. Người chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục toàn diện cả về chính trị, quân sự, văn hóa, đạo đức, khoa học, kĩ thuật,... của nền giáo dục mới sẽ cung cấp cho con người tri thức toàn diện, rèn luyện cho con người năng lực toàn diện để tự tin bước vào xã hội mới. Người viết: “Trong giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động sản xuất” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 647). Nội dung giáo dục này cũng tạo điều kiện để con người Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại, trau dồi vốn hiểu biết về thời đại, về khoa học kĩ thuật cơ bản, thiết thực, vững chắc, đồng thời rèn luyện thói quen, kĩ năng lao động và thực hành,... tạo ra sự phát triển hài hòa các sức mạnh của lí trí, tình cảm và ý chí, của kiến thức, kĩ năng và thái độ của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần quan trọng cho sự ra đời và phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện khi có sự chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện, vươn lên của cá nhân. Khi bàn về mối quan hệ giữa điều kiện, hoàn cảnh với con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 3, tr. 55). Như vậy, giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và con người có quan hệ biện chứng lẫn nhau. Điều kiện, hoàn cảnh càng thuận lợi bao nhiêu thì con người càng phát triển bấy nhiêu, con người muốn phát triển toàn diện bao nhiêu, thì phải tạo ra hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh dù có thuận lợi đến mấy nhưng không có sự nỗ lực, cố gắng của chủ thể thì hiệu suất của quá trình tiếp nhận và chuyển hóa hệ thống các giá trị xã hội thông qua quá trình xã hội hóa các quan hệ xã hội thành những năng lực của chủ thể sẽ không cao. Sự tác động của môi trường tự nhiên và xã hội đến sự phát triển con người diễn ra thường xuyên trên cả hai bình diện thể lực và trí tuệ, năng lực nhận thức, năng lực hành động. Song, cùng một môi trường sống như nhau, nhưng ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi cá nhân lại không giống nhau. Nói cách khác, khả năng tiếp nhận chuyển hóa của các nhân tố khách quan với từng chủ thể có khác nhau, tùy thuộc vào nhận thức, sự nỗ lực, tự giác và năng lực của mỗi chủ thể đó. Trên cơ sở lí luận đó, Hồ Chí Minh hết sức đề cao yếu tố tự giác rèn luyện, vươn lên của các cá nhân trong sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển toàn diện con người. Bằng kinh nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và khách quan cũng như bằng sự nghiên cứu, tổng kết lịch sử, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 596). Suy rộng ra nghĩa là trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con người, các nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố chủ quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá nhân. Con người với tư cách là chủ thể trong sự phát triển của nó, luôn là nhân tố cơ bản để hình thành nên những nhân cách vẹn toàn, những cá nhân phát triển toàn diện. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, trong việc phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam, cần phải đặc biệt chú ý đến phát triển ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường, năng lực tự vươn lên không biết mệt mỏi của con người. Hồ Chí Minh viết: “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 120). Thực chất của triết lí phát triển con người của Hồ Chí Minh là tạo ra mọi điều kiện xã hội thuận lợi, từ đó tạo ra những cơ hội để mọi người được tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó phát triển, phát huy những năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của phát triển xã hội. Thông qua đó con người cũng được rèn luyện, trải nghiệm để họ nhận thức được sự cần thiết phải có ý thức tự giác, tích cực chủ động trong phát triển mình và phát triển xã hội. Đó như là những vấn đề có tính quy luật trong phát triển toàn diện con người Việt Nam. Hiện nay, thế giới đã bước vào thời kì của cuộc CMCN 4.0, nó đã, đang và sẽ tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để giải quyết những vấn đề thuận lợi và thách thức do cuộc cách mạng này mang lại, suy cho cùng là giải quyết vấn đề con người, trong đó con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những vấn đề trọng tâm để đất nước ta tận dụng cơ hội nhằm phát triển đất nước cũng như phát triển con người Việt Nam. Theo đó, cần thấy được những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam do cuộc CMCN 4.0 đặt ra, từ đó nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật trong phát triển con người của Hồ Chí Minh vào xây dựng chiến lược con người ở nước ta đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới. 2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam hiện nay Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp với các bước phát triển nhảy vọt về khoa học, công nghệ và hiện nay đang bước vào CMCN 4.0. Bản chất của cuộc cách mạng này là dựa trên nền tảng công nghệ số và sự tích hợp các công nghệ thông minh trên lĩnh vực vật lí và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ na-nô,... Những lĩnh vực của cuộc cách mạng này đặt ra những yêu cầu cho con người Việt Nam trên một số lĩnh vực như sau: Thứ nhất, con người có trình độ và kĩ năng lao động cao đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 trong khi trình độ lao động, thói quen xấu, kỉ luật lao động và khả năng làm việc nhóm của không ít người dân Việt Nam còn ở trình độ thấp. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong CMCN 4.0, nó sẽ làm thay đổi bản chất của công việc một cách đáng kể đối với tất cả các ngành, nghề. Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao động đặt lên hàng đầu để thích ứng với máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại, đi kèm với đó là mức độ chuyên môn hóa ngày càng cao, đòi hỏi khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm, ý thức kỉ luật lao động. Trong khi chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, con người Việt Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu như cơ hội chủ nghĩa, bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao,... Đây là những yếu điểm, đồng thời là những thách thức khiến chúng ta đánh mất các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại, dẫn đến tụt hậu so với các nước khác. Thứ hai, sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới do CMCN 4.0 đem lại, đòi hỏi khả năng thích ứng của con người Việt Nam. Sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ hiện đại từ cuộc CMCN 4.0 mà tâm điểm là việc hình thành các nhà máy thông minh, nhà máy số - nơi mà máy móc, thiết bị sẽ được kết nối, tự động ra quyết định toàn bộ hoạt động của nhà máy từ khâu thu thập, phân tích yêu cầu, xây dựng kế hoạch sản xuất. Do đó, lao động máy móc và tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay, một mặt nó đòi hỏi về chất lượng con người, nhưng mặt khác, nó cũng thay đổi phương thức lao động của con người, khiến nhiều ngành nghề truyền thống sẽ mất đi, nhiều lĩnh vực lao động mới xuất hiện, thời gian xuất hiện và mất đi có khi diễn ra rất ngắn. Điều này đòi hỏi con người phải có đủ phẩm chất và năng lực để thích nghi. Trong khi đó, không ít người Việt Nam vừa có trình độ lao động thấp, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sẽ khó có khả năng thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của phương thức lao động mới này. Thứ ba, khả năng thực hành, khả năng ngoại ngữ và khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh công nghiệp của con người Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 làm cho thế giới ngày càng “phẳng” hơn, nghĩa là các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, mức độ liên kết chặt chẽ hơn, do đó, đòi hỏi các cá nhân phải thông hiểu ngoại ngữ để trao đổi, liên kết trong công việc. Bên cạnh đó, năng lực thực hành đòi hỏi hiện hữu và trực tiếp nhất đối với người lao động, trong cuộc cách CMCN 4.0, cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước ngày càng khốc liệt hơn, do chính nhân tố kinh tế quy định. Trong khi đó khả năng ngoại ngữ của chúng ta còn khá thấp, công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp về cả số lượng và chất lượng. Đào tạo cao đẳng và đại học vẫn chiếm tỉ lệ lớn, đây là nguyên nhân dẫn đến việc thừa thầy thiếu thợ. Phương thức giảng dạy vẫn còn lạc hậu, chưa áp dụng các công nghệ hiện đại mới. Trong công tác xây dựng chương trình giảng dạy còn thiếu các chương trình thực tế, dẫn đến thiếu cơ hội cho người học áp dụng những kiến thức được học trong nhà trường vào các vấn đề cụ thể của xã hội. Với tâm lí bằng cấp, hầu hết người học đều lựa chọn học đại học hoặc sau đại học mà không chú trọng đến nhu cầu nhân lực cũng như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng người lao động có bằng đại học nhưng chấp nhận làm những công việc không cần chuyên môn kĩ thuật,... Thứ tư, yêu cầu về sự hoàn thiện giá trị con người Việt Nam với sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ do mặt trái của CMCN 4.0 tạo ra. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí;… mang lại những thông tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện, dễ dàng; khả năng chia sẻ, kết nối cao,… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngôn ngữ tiếng lóng, ngôn từ kí hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng của tiếng Việt,...khiến mỗi cá nhân là một không gian khép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Những rạn nứt trong cung cách ứng xử, lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp, nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa. Bạo hành gia đình giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái; tranh giành tài sản đất đai,… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp. 3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, cần vận dụng vào phát triển con người Việt Nam toàn diện, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, cần tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Đảng ta đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 223). Tuy nhiên, khi xây dựng chiến lược này phải quán triệt di huấn của Người trong bản Di chúc thiêng liêng: “Đầu tiên là công việc đối với con người” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 15, tr. 616). Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách trong chiến lược phát triển con người của Đảng phải luôn hướng đến con người, tất cả vì con người và phải coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 76 - 77) trong sự phát triển của xã hội. Chủ trương, chính sách này phải cụ thể, rõ ràng trong việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại CMCN 4.0, đó là: “Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc CMCN 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm” (Bộ Chính trị, 2019). Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. Theo đó: “Nhà nước ưu tiên chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới trong các ngành, lĩnh vực; có trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để người dân và doanh nghiệp là các chủ thể quyết định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Bộ Chính trị, 2019). Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Tức là phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 126 - 127). Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải phù hợp với những giá trị văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hệ giá trị chuẩn này là cơ sở để các lĩnh vực: văn hóa, y tế, giáo dục,… các cấp, các ngành có căn cứ để vun đắp cho con người Việt Nam những giá trị, tùy theo lĩnh vực hoạt động của mình. Đi đôi với đó phải có cơ chế để “đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực,… làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 51). Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện của cuộc CMCN 4.0 đem lại để phát triển con người Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Tuy vậy, “mức độ chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 ở nước ta còn thấp” (Bộ Chính trị, 2019). Theo đó, chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều kiện vật chất phục vụ cho con người phát triển thông qua việc đáp ứng tốt các nhu cầu của con người, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trong cả nước. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển toàn diện. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa. Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 48). Như vậy, để có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cần phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kĩ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Nếu người học được trang bị kiến thức rộng, trang bị năng lực tư duy, năng lực diễn đạt, ... thì sẽ thành công hơn trong cuộc sống. Định hướng đổi mới giáo dục theo hướng “khai phóng” đã trở thành triết lí hiện đại mà nhiều trường đại học hàng đầu trên thế giới theo đuổi. Theo đó, trong giáo dục phải “Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất người học” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 115). Đó là, cần đề cao yếu tố con người, hướng tới phát huy tối đa khả năng sáng tạo của cá nhân, giải phóng tư duy, khơi gợi sự sáng tạo bên trong bộ óc con người, tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng cá nhân. Đó là: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số” (Bộ Chính trị, 2019). Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một vấn đề nan giải. Thay vì chỉ đào sâu trong một lĩnh vực cụ thể, người học theo định hướng khai phóng sẽ tìm tòi, khám phá các vấn đề, ý tưởng, các phương pháp giải quyết trên nhiều lĩnh vực rộng khắp, từ nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, đến triết học, lịch sử, toán học và khoa học. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kĩ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc. Kết luận Cuộc CMCN 4.0 đã và đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó vừa đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển của con người, đồng thời cũng tạo ra những tiền đề, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển con người ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện vẫn còn nguyên các giá trị lịch sử và đương đại sâu sắc. Tư tưởng ấy là cơ sở, là kim chỉ nam cho Đảng ta hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời kì mới... Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, giá trị của tư tưởng đó phải được vận dụng và cụ thể hóa trong điều kiện mới hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Chính trị. 2019. Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số 52-NQ/TW. Hà Nội. 2. C. Mác và Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập. Tập 3, 5. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 3. Nguyễn Hữu Công. 2010. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2014. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa XI. Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập. Tập 3, 4, 5, 7, 11, 12, 15, 20. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội 8. Klaus Schwab. 2016. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dịch bởi Đồng Bích Ngọc và Trần Thị Mỹ Anh. * TS.; Khoa Triết học Mác - Lênin, Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng. Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1 (112) 2021 Các tin đã đưa ngày: |