Vai trò của chính sách môi trường

Bài viết của TS. Đặng Quang Vinh - Giảng viên Chương trình Thạc sỹ Chính sách công (MPP)

Đã từ lâu, thể chế và chính sách công được coi là các yếu tố quan trọng hàng đầu đối với tăng trưởng kinh tế[1]. Ở Việt Nam, vai trò của chính sách công được thể hiện rõ nét ở các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy đầu tư tư nhân. Các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư tư nhân cụ thể là xây dựng thể chế rõ ràng hơn, minh bạch hơn cho hoạt động đầu tư.

Về xây dựng thể chế rõ ràng hơn, minh bạch hơn cho hoạt động đầu tư, năm 2014 Quốc hội ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp với nhiều cải cách về đầu tư, kinh doanh. Với Luật Đầu tư năm 2014, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam quy định rõ các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp tư nhân bị cấm kinh doanh hoặc được phép kinh doanh, đồng thời quy định rõ các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện. Đối với Luật Doanh nghiệp năm 2014, việc thành lập doanh nghiệp trở nên dễ dàng hơn rất nhiều do Luật này không yêu cầu nhà đầu tư pháp đáp ứng các yêu cầu, điều kiện kinh doanh khi xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Luật này tạo ra khung khổ pháp lý linh hoạt hơn cho hoạt động của công ty bằng cách cho phép các công ty linh hoạt hơn trong lựa chọn mô hình tổ chức quản trị, linh hoạt hơn trong việc quy định nguyên tắc quản trị cụ thể phù hợp thực tế của công ty, như: cho phép công ty cổ phần tự do lựa chọn hình thức tổ chức quản lý theo mô hình “đơn hội đồng” hoặc “đa hội đồng”. Luật này cũng bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư khi có yêu cầu cao hơn về công khai hóa thông tin đối với công ty, mở rộng quyền tiếp cận thông tin cho các cổ đông, tăng cường quyền được tiếp cận thông tin, định kỳ hoặc theo yêu cầu, đối với mọi cổ đông không hạn chế về tỷ lệ sở hữu cổ phần, đặc biệt đối với các thông tin về quản lý và giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi của công ty; xác định rõ hơn, cụ thể hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý công ty.

Vai trò của chính sách môi trường
Sinh viên Chương trình Chính sách công đi ngoại khóa trong chuyến thực tập tại Nhật Bản

Nối tiếp chính sách cải thiện môi trường kinh doanh, từ 2018 Chính phủ đã liên tục thực hiện các giải pháp cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh và cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công. Năm 2018, Chính phủ đề ra mục tiêu cắt giảm 50% số điều kiện kinh doanh. Để tiếp tục nâng cao chất lượng hệ thống thể chế về đầu tư, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh trong giai đoạn 2020-2025 với mục tiêu cắt giảm ít nhất 20% số quy định kinh doanh và 20% chi phí tuân thủ quy định kinh doanh.

Thời gian qua, Việt Nam liên tục được Ngân hàng thế giới đánh giá có sự cải thiện về chất lượng môi trường kinh doanh, nhờ vậy rút ngắn thời gian, giảm chi phí và rủi ro cho doanh nghiệp. Qua bốn năm (2016-2019), môi trường kinh doanh tăng 5,97 điểm (thể hiện cải thiện chất lượng) và 12 bậc (từ thứ 82 năm 2016 lên thứ 70 năm 2019).

Các chính sách cải thiện môi trường kinh doanh trong những năm vừa qua đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư, thành lập doanh nghiệp. Năm 2019, doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng, vốn đăng ký và số lao động so với năm 2018. Trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới năm nay đạt mức kỷ lục 138,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 5,2% so với năm trước. Tổng số vốn đăng ký là 1.730,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 1.254,4 nghìn lao động, tăng 17,1% về vốn đăng ký và tăng 13,3% về số lao động so với năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 12,5 tỷ đồng, mức cao nhất trong những năm gần đây[2]. Đây là một bằng chứng rất thuyết phục về vai trò của chính sách công đối với tăng trưởng kinh tế.

Trường Đại học Việt Nhật là một trong số ít trường đại học tổ chức đào tạo toàn thời gian chương trình thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. Đến với Chương trình Thạc sĩ Chính sách công của trường Đại học Việt Nhật, học viên sẽ không chỉ có cơ hội được học tập và nghiên cứu cùng với các giáo sư Nhật Bản và giảng viên Việt Nam, mà các học viên xuất sắc của chương trình còn sẽ còn có nhiều cơ hội được nhận học bổng của chính phủ và các tổ chức Nhật Bản, Việt Nam, cũng như học bổng thực tập 03 tháng tại Nhật Bản.

Năm 2020, Trường Đại học Việt Nhật, ĐHQGHN tiếp tục tuyển sinh và cấp học bổng cho 8 chương trình đào tạo Thạc sĩ. Trong đó, quỹ hội nhập Nhật Bản - ASEAN (JAIF) cấp 26 học bổng toàn phần cho học viên Việt Nam giá trị cao. Đợt tuyển sinh năm nay được chia thành 04 đợt:

1) Đợt 1: Gộp vào đợt 2 và đợt 3

2) Đợt 2: Ngày 09/06/2020

3) Đợt 3: Ngày 17/08/2020

4) Đợt tuyển sinh bổ sung: 17/09/2020 

(Sáng: 8h00-12h00, Chiều: 13h30 – 17h30)

Nơi tiếp nhận hồ sơ:

Bộ phận Tuyển sinh

Phòng 509, Tầng 5, Cơ sở Mỹ Đình, đường Lưu Hữu Phước, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội

+ Tel: (+84-4) 73 06 6001 (số máy lẻ: 5093)

+ Hotline: +84-969 638 426 hoặc +84-966 954 736

+ Email:

[1] Rodrik, D., Subramanian, A., & Trebbi, F. (2004). Institutions rule: the primacy of institutions over geography and integration in economic development. Journal of Economic Growth, 9, 131–165.

[2] Tổng cục Thống kê, “Tình hình kinh tế - xã hội năm 2019”, xem tại https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=19454

Vai trò của chính sách môi trường

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Phát huy vai trò của chính sách tài chính trong thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường

PGS.,TS. Lê Xuân Trường - Học viện Tài chính

15:31 18/07/2017

Chính sách tài chính là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường nhằm phát triển kinh tế bền vững. Bài viết đi sâu phân tích chính sách tài chính, bao gồm chính sách thu, chi ngân sách nhằm hiện thực hóa quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường, qua đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế của chính sách tài chính trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường và đề xuất giải pháp phát huy vai trò của chính sách tài chính trong thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường như: Tăng cường giám sát chi ngân sách cho bảo vệ môi trường, mở rộng cơ sở thuế bảo vệ môi trường…

Sửa đổi, bổ sung chính sách thuế, phí đối với tài nguyên khoáng sản

Quy định mới về mức thu phí xác nhận đủ điều nhập khẩu phế liệu

Quản lý phí xác nhận đủ điều kiện bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu

Quy định mức phí xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu

Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách Nhà nước về bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường (BVMT) đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo đất nước. Trong bối cảnh phải coi trọng phát triển kinh tế để thực sự thoát khỏi khủng hoảng kinh tế đầu những năm 1990, Đảng ta vẫn rất quan tâm đến vấn đề BVMT.

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 xác định: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, BVMT.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010 được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục chủ trương nhất quán về BVMT với quan điểm: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT.

Đặc biệt, ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị (Khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết đã đánh giá tình hình BVMT, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ BVMT và các giải pháp chính để BVMT.

Trong đó, có một số quan điểm đáng chú ý như:

(i) BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta;

(ii) BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành và từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ BVMT;

(iii) Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là: “Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược” và “Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”.

Chiến lược này cũng xác định nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn 2011 – 2020 là “Nâng cao ý thức BVMT, gắn nhiệm vụ, mục tiêu BVMT với phát triển kinh tế - xã hội”….

Nhằm cụ thể hóa chủ trương BVMT trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 6/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. Nghị quyết cũng đề ra các giải pháp toàn diện để BVMT.

Về giải pháp tài chính, Nghị quyết xác định “Quán triệt và vận dụng có hiệu quả nguyên tắc: Người gây ô nhiễm phải chi trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; người được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và BVMT.

Thực hiện chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và BVMT”.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã xác định mục tiêu tổng quát 5 năm (2016 – 2020) là phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: Khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo và các nguyên liệu, vật liệu mới, thân thiện với môi trường.

Chủ trương BVMT của Đảng nêu trên đã được cụ thể hóa thành pháp luật. Theo đó, ngày 29/11/2005, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật BVMT làm cơ sở pháp lý quản lý một cách toàn diện và đầy đủ các hoạt động BVMT.

Trước những thay đổi của các điều kiện thực tiễn và những nhận thức mới về môi trường và BVMT, ngày 23/6/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BVMT số 55/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015 thay thế Luật BVMT năm 2005.

Ngoài các nghị quyết Đại hội Đảng, của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Chính phủ cũng cụ thể hóa các quan điểm và chủ trương này thành các chính sách cụ thể thông qua các nghị quyết và chỉ thị của Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội.

Từ những phân tích trên cho thấy, BVMT để góp phần đảm bảo phát triển kinh tế bền vững là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và những thay đổi của điều kiện cụ thể và nhận thức của Đảng, quan điểm, chủ trương và các chính sách về BVMT ngày càng toàn diện và phù hợp hơn với điều kiện lịch sử của đất nước.

Thực trạng và kết quả thực thi chính sách tài chính bảo vệ môi trường

Chính sách tài chính vừa có tác động trực tiếp đến hành vi của các chủ thể với môi trường, vừa tạo tiền đề vật chất cho hoạt động BVMT. Chính sách tài chính BVMT gồm 2 thành phần chính là chính sách chi ngân sách và chính sách thu ngân sách. Cụ thể:

Chính sách chi ngân sách với mục tiêu bảo vệ môi trường

Nhận thức được tầm quan trọng của BVMT trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định dành tối thiểu 1% tổng chi ngân sách nhà nước (NSNN) để chi cho BVMT. Đặc biệt, tỷ lệ chi cho BVMT được xác định tăng dần cùng với tăng tưởng kinh tế.

Luật BVMT số 55/2014/QH13 quy định: “Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho BVMT; bố trí khoản chi riêng cho BVMT trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn kinh phí BVMT được quản lý thống nhất và ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng điểm trong BVMT”.

Thực hiện chủ trương này, trong kế hoạch ngân sách hàng năm đều được xây dựng và bố trí kinh phí chi cho BVMT. Các khoản chi cho BVMT đều được lập dự toán và thực hiện quyết toán chi theo đúng Luật NSNN.

Số liệu thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, chi ngân sách cho BVMT trong giai đoạn 2012 – 2016 là 131.857 tỷ đồng, trong đó, chi thường xuyên cho BVMT thuộc của cả ngân sách trung ương và địa phương khoảng 89.131 tỷ đồng; chi cho ngành Tài nguyên và môi trường thực hiện các nhiệm vụ chi BVMT là 24.246 tỷ đồng; chi dự phòng ngân sách Trung ương để phòng chống, khắc phục thiên tai 18.480 tỷ đồng (Lê Hữu Việt, 2017). Với số chi thực tế như trên, tỷ lệ chi ngân sách cho BVMT đã đạt khoảng 2% tổng chi NSNN.

Các khoản chi ngân sách cho BVMT bao gồm cả chi trực tiếp và gián tiếp. Do chi gián tiếp cho BVMT được lồng ghép trong các nội dung chi khác của NSNN nên không thể thống kê đầy đủ (Chẳng hạn như việc chi NSNN cho phòng và chữa các bệnh gây ra bởi khói thuốc lá là một phần của chi cho y tế).

Tuy nhiên, với số liệu về chi ngân sách trực tiếp cho BVMT cho thấy, trong nhiều năm qua, chính sách tài chính BVMT đã cụ thể hóa tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về BVMT.

Chính sách thu ngân sách với mục tiêu bảo vệ môi trường

Chính sách thu ngân sách với mục tiêu BVMT được xây dựng và hoàn thiện theo phương châm kích thích các hoạt động có lợi cho môi trường, thân thiện với môi trường và kìm hãm, ngăn chặn các hoạt động gây hại cho môi trường.

Chính sách thu ngân sách với mục tiêu BVMT cũng được xây dựng theo nguyên tắc: Người gây ô nhiễm phải chi trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; người được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và BVMT.

Mục tiêu BVMT được cụ thể hóa trong cả nội dung chính sách thuế gián thu và thuế trực thu, trong cả chính sách phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN.

Các công cụ để thực hiện mục tiêu BVMT cũng rất đa dạng, bao gồm: Xác định đối tượng phải nộp thuế, phải nộp phí BVMT; xác định thuế suất, ưu đãi thuế; áp dụng cơ chế đặt cọc – hoàn trả… Cụ thể gồm:

Thuế Bảo vệ môi trường

Thuế BVMT là sắc thuế thuộc nhóm thuế gián thu đánh vào những hàng hóa mà trong quá trình sản xuất và sử dụng có hại cho môi trường nhưng không thể đo lường được nồng độ và khối lượng chất gây ô nhiễm môi trường, hoặc nếu có thể đo lường thì chi phí quá tốn kém.

Thuế BVMT cấu thành trong giá bán của các mặt hàng chịu thuế nên góp phần giảm mức độ tiêu dùng các hàng hóa gây ô nhiễm môi trường.

Chính sách thuế BVMT của Việt Nam hiện được cụ thể hóa trong Luật Thuế BVMT số 57/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 15/11/2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012.

Theo Luật Thuế BVMT, các mặt hàng thuộc diện chịu thuế BVMT bao gồm: Xăng, dầu, mỡ nhờn; Than đá; Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon; Túi ni lông thuộc diện chịu thuế; Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.

Thuế BVMT được tính theo mức thuế tuyệt đối, chẳng hạn như, theo khung biểu thuế hiện hành, mặt hàng xăng từ 1.000 đồng đến 4.000 đồng/lít; than đá từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng/tấn; túi ni lông từ 30.000 đồng đến 50.000 đồng/kg.

Vai trò của chính sách môi trường

Số thu thuế BVMT trong thời gian qua tuy chiếm tỷ trọng không cao nhưng đã góp phần đáng kể tăng thu NSNN và có xu hướng tăng trong 2 năm trở lại đây (Bảng 1).

Thuế tiêu thụ đặc biệt

Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) của Việt Nam trong thời gian qua đã dần được hoàn thiện, đáp ứng các yêu cầu về thu ngân sách và điều tiết kinh tế vĩ mô. Quá trình điều chỉnh chính sách thuế TTĐB theo hướng góp phần BVMT thể hiện trên ba phương diện cơ bản sau:

Một là, đưa vào diện chịu thuế các mặt hàng mà quá trình sản xuất và tiêu dùng gây hại cho môi trường và sức khỏe con người như xăng, thuốc lá… (áp dụng nhất quán hơn 20 năm qua).

Hai là, quy định thuế suất theo hướng điều tiết cao vào những mặt hàng gây ô nhiễm nhiều hơn, chẳng hạn như điều chỉnh tăng thuế suất với thuốc lá từ 65% năm 2009 lên 70% từ năm 2016 đến 2018 và lên 75% từ 1/1/2019; áp dụng thuế suất cao đối với xe ô tô chở người có dung tích động cơ lớn (theo Luật số 106/2016/QH13 thì kể từ ngày 1/1/2018, trong khi xe chở người từ 9 chỗ trở xuống có dung tích động cơ từ 1.500 cm3 trở xuống mức thuế suất chỉ là 35% thì loại có dung tích động cơ trên 6.000 cm3 thuế suất là 150%).

Ba là, áp dụng thuế suất thấp để khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng thân thiện với môi trường.

Theo đó, kể từ ngày 1/1/2009, mức thuế suất áp dụng đối với xe ô tô sử dụng năng lượng sinh học chỉ bằng 50% mức thuế suất của xe cùng loại; xe ô tô sử dụng xăng kết hợp với điện và năng lượng sinh học mức thuế suất chỉ bằng 70% đối với xe cùng loại.

Thuế xuất khẩu, nhập khẩu

Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu (XKNK) có quy định góp phần tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động BVMT thông qua quy định về miễn thuế nhập khẩu.

Theo đó, Luật Thuế XKNK năm 2005 quy định miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của dự án đầu tư vào lĩnh vực xử lý ô nhiễm và BVMT; sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải.

Luật Thuế XKNK số 107/2016/QH13 vẫn kế thừa quy định miễn thuế nhập khẩu của Luật thuế XKNK năm 2005 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh góp phần tích cực BVMT.

Ngoài ra, lĩnh vực ưu đãi còn được mở rộng thêm đối với hoạt động sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải.

Thuế thu nhập doanh nghiệp

Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) chủ yếu tác động đến mục tiêu BVMT thông qua các ưu đãi thuế.

Theo đó, Luật Thuế TNDN năm 2003 quy định áp dụng thuế suất ưu đãi 15% trong thời hạn 12 năm đối với DN mới thành lập từ dự án đầu tư vào lĩnh vực các xử lý ô nhiễm và BVMT; sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải (thuế suất phổ thông của giai đoạn này là 28%).

Theo Luật Thuế TNDN năm 2008 (hiện vẫn đang áp dụng sau 2 lần sửa đổi, bổ sung các năm 2012 và 2014), thuế suất thuế TNDN 10% áp dụng đối với DN đáp ứng đủ tiêu chí xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường (thuế suất phổ thông trong giai đoạn này là 25%, sau đó giảm xuống 22% và hiện nay là 20%).

Thuế tài nguyên

Luật Thuế tài nguyên được ban hành năm 2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2010 thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1998. Khung thuế suất thuế tài nguyên do Quốc hội quy định.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thuế suất cụ thể trên cơ sở tuân thủ 3 nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc “Góp phần quản lý nhà nước đối với tài nguyên; bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên”.

Khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thuế suất dựa trên nguyên tắc này sẽ góp phần tránh khai thác cạn kiệt tài nguyên, qua đó, BVMT sinh thái.

Phí và lệ phí

Bên cạnh các công cụ hành chính nhằm đảm bảo các hoạt động khai thác tài nguyên, sản xuất công nghiệp… không được gây ô nhiễm môi trường quá tiêu chuẩn cho phép, các hoạt động khai thác tài nguyên và sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường mà những chất gây ô nhiễm trong mức cho phép và có thể đo lường được thì phải nộp phí BVMT, đó là các khoản: Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản, phí BVMT đối với khí thải, phí BVMT đối với nước thải.

Ngoài ra, còn có các khoản phí lệ phí liên quan khác như: Phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, phí thẩm định phương án phục hồi, cải tạo môi trường…

Số thu các khoản phí trong lĩnh vực khai thác khoáng sản và BVMT trong những năm qua đã tạo nguồn thu cần thiết để trực tiếp phục hồi môi trường và khắc phục sự cố môi trường. Chẳng hạn như, số thu từ phí BVMT đối với khai thác khoáng sản lần lượt các năm từ 2012 đến 2016 là: 2.138 tỷ đồng; 2.228 tỷ đồng; 2.558 tỷ đồng; 2.518 tỷ đồng; 2.600 tỷ đồng.

Cơ chế đặt cọc – hoàn trả

Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ 1/7/2011 đã quy định “Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản phải thực hiện các giải pháp và chịu mọi chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường” và “Trước khi tiến hành khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường”. Khi đóng cửa mỏ, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản được nhận lại tiền ký quỹ phải thực hiện đúng đề án cải tạo, phục hồi môi trường.

Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản không thực hiện đúng đề án cải tạo, phục hồi môi trường thì không được nhận lại khoản tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường. Như vậy, khi thực hiện cơ chế này, sẽ đảm bảo nguồn tài chính để cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản.

Như vậy, xét một cách tổng quát, chính sách tài chính vĩ mô đã cụ thể hóa thành công quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về BVMT trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, qua đó, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, phát triển kinh tế đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Một số hạn chế, bất cập

Bên cạnh những thành công cơ bản nêu trên, chính sách tài chính với mục tiêu BVMT còn tồn tại một số hạn chế, bất cập sau:

Một là, tính hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách cho BVMT ở một số địa phương chưa đáp ứng yêu cầu BVMT. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là công tác kiểm tra, kiểm soát chưa chặt chẽ và kịp thời; phân cấp chi cho cấp cơ sở chưa phù hợp thực tế.

Điều này lý giải tại sao ở một số địa phương có nhiều mỏ khoáng sản đang được khai thác, môi trường sinh thái và môi trường sống của dân cư bị ảnh hưởng khá nặng nề mà không được khắc phục kịp thời.

Hai là, đối tượng chịu thuế BVMT chưa bao quát hết các hàng hóa mà quá trình sản xuất và tiêu dùng gây ô nhiễm môi trường.

Ba là, mức thuế TTĐB và thuế BVMT đối với một số hàng hóa chưa thực sự hợp lý, chưa đủ lực để thúc đẩy sản xuất xanh và tiêu dùng xanh; chưa cân đối hài hòa giữa yêu cầu tăng trưởng nhanh với tăng trưởng xanh trong chính sách thuế.

Cụ thể là, mặc dù túi ni lông đã được đưa vào diện đánh thuế BVMT với khung mức thu cao nhất là 50.000 đồng/kg song mức độ tiêu thụ túi ni lông vẫn không giảm. Mức thuế BVMT đối với xăng dầu hiện tại cũng chưa đủ lớn đến thúc đẩy sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả loại nhiên liệu này.

Bốn là, chưa thực hiện triệt để cơ chế đặt cọc – hoàn trả ở các lĩnh vực cần thiết phải áp dụng cơ chế này. Lĩnh vực sản xuất công nghiệp tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ô nhiễm cần ràng buộc nghĩa vụ cải tạo, phục hồi môi trường chưa áp dụng cơ chế này.

Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường

Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, cần triển khai các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả chi ngân sách cho BVMT. Chính sách chi ngân sách của Nhà nước cho BVMT chỉ thực sự đi vào cuộc sống khi quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách tuân thủ đúng quy định pháp luật và đáp ứng được những đòi hỏi thực tiễn ở từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc.

Muốn đạt được yêu cầu này, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách BVMT; cơ quan cấp trên cần bám sát cơ sở, nắm bắt tình hình thực tiễn để phân cấp hợp lý và bổ sung ngân sách để các địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ chi ngân sách BVMT.

Thứ hai, mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT. Đối với thuế BVMT nên bổ sung thêm vào diện chịu thuế đối với pin, ắc quy, một số hóa chất tẩy rửa công nghiệp và các loại thuốc bảo quản thực vật thuộc loại hạn chế sử dụng, bởi đây là những mặt hàng mà quá trình sản xuất, sử dụng hoặc khi kết thúc quá trình sử dụng thải ra gây ô nhiễm môi trường.

Việc đưa vào diện chịu thuế BVMT là để thực hiện đúng phương châm chính sách “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.

Thứ ba, điều chỉnh mức thuế. Mặc dù xăng dầu là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, song là nguồn năng lượng không tái tạo và quá trình sử dụng gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng nên phải quy định mức thu đủ lớn sao cho các nhà sản xuất phương tiện vận tải phải chú ý nhiều hơn đến mục tiêu tiết kiệm nhiên liệu, người tiêu dùng phải luôn thường trực ý thức sử dụng tiết kiệm nhiên liệu hóa thạch.

Vì vậy, tác giả bài viết hoàn toàn đồng tình với đề xuất của Bộ Tài chính về việc nâng trần mức thuế BVMT đối với xăng lên 8.000 đồng/lít. Ngoài ra, cần nâng mức thuế BVMT đối với túi ni lông đến mức chi phí sử dụng túi ni lông cao hơn các loại bao bì thân thiện với môi trường.

Muốn vậy, cần khảo sát và tính toán chi phí sử dụng bình quân các loại bao bì thân thiện với môi trường để so sánh với chi phí sử dụng túi ni lông, qua đó, xác định mức tăng thuế BVMT đối với túi ni lông một cách phù hợp nhất.

Thứ tư, mở rộng cơ chế đặt cọc – hoàn trả. Đây là cơ chế tốt để ràng buộc trách nhiệm BVMT của các nhà sản xuất, song cơ chế này hiện nay mới chỉ được áp dụng đối với lĩnh vực khai thác khoáng sản. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu áp dụng cơ chế này đối với lĩnh vực sản xuất công nghiệp.

Bởi trong thực tế, mặc dù pháp luật BVMT đã yêu cầu bắt buộc các dự án sản xuất công nghiệp phải đảm bảo xả thải theo tiêu chuẩn môi trường. Tuy nhiên, việc vi phạm vẫn xảy ra khá thường xuyên mà chưa có cơ chế phát hiện và kiểm soát kịp thời.

Bởi vậy, để tăng cường trách nhiệm của nhà sản xuất và đảm bảo nguồn tài chính kịp thời khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường, thì cần thực hiện cơ chế ký quỹ môi trường đối với những dự án nằm trong danh mục có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường (Danh mục cụ thể do Bộ Khoa học và Công nghệ quy định).

Lựa chọn quy định này là để đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng nhanh với tăng trưởng bền vững, không quá nghiêng về mục tiêu tăng trưởng nhanh.

Thứ năm, làm tốt công tác tuyên truyền chính sách. Trong thời gian vừa qua, mặc dù các chính sách đã được xây dựng và tổ chức thực thi khá tốt, song do công tác tuyên truyền chưa đúng hướng và chưa hiệu quả, nên các chủ trương, chính sách đúng đắn đó của Đảng và Nhà nước chưa thu hút được sự ủng hộ của đông đảo người dân.

Việc định hướng thông tin và kiểm soát thông tin của các báo mạng chưa tốt đã làm cho người dân hiểu sai về chính sách của Nhà nước.

Chẳng hạn như, chủ trương nâng mức thuế BVMT đối với xăng là đúng đắn nhưng các báo mạng chỉ khai thác khía cạnh gánh nặng thuế của người dân và tăng thu ngân sách mà không làm rõ những khía cạnh lợi ích của người dân nhận được hưởng từ sự thay đổi công nghệ của nhà sản xuất, từ môi trường sống giảm ô nhiễm do khói bụi.

Nhìn chung, các cơ quan chức năng cần làm tốt công tác định hướng thông tin để người dân hiểu và ủng hộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung và chính sách tài chính BVMT nói riêng.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng, Tư liệu văn kiện Đảng/Văn kiện Đại hội, website dangcongsan.vn;

2. Lê Xuân Trường (2014), Cấu trúc thu ngân sách bền vững: Những vấn đề lý luận và thực tiễn Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tài chính;

3. Lê Hữu Việt (2017), “Bộ Tài chính tính lại, tiền chi cho môi trường tăng gấp đôi”, Tienphongonline, ngày 3/6/2017.

In bài viết

nhập khẩu mặt hàng tài chính thuế bộ tài chính tăng trưởng áp dụng điều chỉnh môi trường bảo vệ xanh sạch nhiệm vụ chi ngân sách chính sách thuế lĩnh vực sản xuất công nghiệp tăng trưởng chính sách tài chính

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Vai trò của chính sách môi trường

    Xu hướng phát triển của lĩnh vực kế toán và cơ hội với Việt Nam

  • Vai trò của chính sách môi trường

    05 tác động cơ bản của EVFTA đến kinh tế Việt Nam

  • Vai trò của chính sách môi trường

    Cơ hội vàng với Việt Nam sau Covid-19?

Tin nổi bật

Vai trò của chính sách môi trường

3 khâu đột phá chiến lược cho Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam

Vai trò của chính sách môi trường

Nâng cao quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam

Vai trò của chính sách môi trường

Chấp nhận công nghệ trong ý định muabảo hiểm nhân thọ trực tuyến của khách hàng

Vai trò của chính sách môi trường

Đánh giá chính sách tạo động lực cho người lao động

Vai trò của chính sách môi trường

Giải pháp thu hút FDI xanh tại Việt Nam